Ông Bùi Minh Thạnh, Chánh văn phòng Tỉnh ủy Bình Dương: “Vấn đề khu đất 43 ha, Tỉnh ủy ban hành Thông báo số 512/TB-TU ngày 10-10-2018 là chủ trương đúng đắn, thể hiện tính nhất quán”

Cập nhật: 04-03-2020 | 08:44:42

Xung quanh những vấn đề về khu đất 43 ha, để kịp thời đưa thông tin đến độc giả và nhân dân hiểu rõ hơn, phóng viên Báo Bình Dương đã có cuộc phỏng vấn ông Bùi Minh Thạnh, Chánh Văn phòng Tỉnh ủy Bình Dương.

Khu đất 43 ha đang tạm dừng mọi hoạt động đầu tư để giải quyết các vấn đề liên quan

- Xin ông cho biết nguồn gốc đất và nguồn vốn chủ yếu để thực hiện hợp đồng đền bù giải phóng mặt bằng khu đất 43 ha này?

- Tổng Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Bình Dương (TCT BD - Tiền thân là Công ty Sản xuất - Xuất nhập khẩu Bình Dương) là doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Tỉnh ủy quản lý và được UBND tỉnh Bình Dương giao hơn 43 ha đất để xây dựng Khu Đô thị thương mại và Dịch vụ Tân Phú nằm trong khu đất dịch vụ có diện tích 563,24 ha. Nguồn vốn chủ yếu để thực hiện hợp đồng đền bù giải phóng mặt bằng khu đất 43 ha này là từ nguồn vốn lưu động và nguồn vốn tự chủ trong kinh doanh của đơn vị, mà tại thời điểm này, công ty do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, sau đó được cấp thẩm quyền giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật (năm 2012). Như vậy, quyền sử dụng khu đất 43 ha là tài sản của TCT BD, trong khi đó Tỉnh ủy Bình Dương là chủ sở hữu TCT BD, do đó tài sản của TCT BD cũng chính là tài sản của Nhà nước.

- Về hợp đồng thỏa thuận liên doanh ký ngày 1-7-2010 đã đúng với chủ trương, tinh thần hợp tác, góp vốn của Tỉnh ủy Bình Dương chưa, thưa ông?

- Trước hết tôi muốn nhấn mạnh việc thành lập công ty liên doanh đầu tư xây dựng và kinh doanh dự án của TCT BD có một số thiếu sót và không đúng với chủ trương của Tỉnh ủy. Thứ nhất, về vấn đề thực hiện ký hợp đồng thỏa thuận liên doanh. Ngày 1-7-2010, TCT BD đã thực hiện ký hợp đồng thỏa thuận liên doanh trước ngày HĐQT của TCT BD họp và ngày 8-7-2010 ra nghị quyết trước khi có chủ trương của đơn vị chủ sở hữu là Tỉnh ủy Bình Dương (ngày 17-8-2010).

Thứ hai, về hợp đồng thỏa thuận liên doanh ký ngày 1-7- 2010, trong đó hợp đồng có bao hàm các nội dung thỏa thuận việc xác định giá đất và chuyển giao quyền sử dụng khu đất 43 ha sang Công ty Tân Phú là chưa đúng với chủ trương, tinh thần hợp tác, góp vốn của Tỉnh ủy Bình Dương (tại Công văn số 1830-CV/ TU ngày 17-8-2010 là góp vốn bằng tiền).

Thứ ba, TCT BD khi báo cáo với Thường trực Tỉnh ủy không đầy đủ thông tin và chọn Công ty Bất động sản Âu Lạc là doanh nghiệp đối tác chưa bảo đảm đủ các yếu tố năng lực tài chính và năng lực kinh nghiệm theo quy định của pháp luật (tại thời điểm này, Công ty Âu Lạc mới được thành lập trước ngày ký hợp đồng thỏa thuận là 9 ngày; vốn điều lệ của công ty chỉ có 60 tỷ đồng, chỉ bằng 42% vốn cam kết phải góp và theo báo cáo của công ty thì trụ sở tại TP.Hồ Chí Minh là trụ sở thuê và đơn vị chưa triển khai hoặc tham gia thực hiện dự án bất động sản nào).

Thứ tư, TCT BD đã báo cáo không đầy đủ và rõ ràng cho chủ sở hữu và cấp thẩm quyền về vấn đề tổng số vốn đã đầu tư ra ngoài khi xin thành lập liên doanh mới. Việc đầu tư 60 tỷ đồng góp vốn thành lập Công ty Tân Phú là không bảo đảm phù hợp với các quy định của Nhà nước.

Thứ năm, tiến độ góp vốn của các công ty là không bảo đảm đúng như cam kết thỏa thuận liên doanh. Việc thực hiện góp vốn có gián đoạn khoảng thời gian gần 6 năm (từ tháng 10-2010 đến tháng 1-2017 mới thực hiện xong). Thực tế cho thấy các công ty góp vốn vào Công ty Tân Phú không phải để triển khai đầu tư dự án khu nhà ở trên khu đất 43 ha như chủ trương của Tỉnh ủy cho phép và cam kết của các công ty, mà dùng toàn bộ số vốn góp được để trả tiền bồi thường, đền bù đất đai cho TCT BD.

- Xin ông cho biết những hạn chế và thiếu sót của TCT BD trong việc chuyển nhượng khu đất 43 ha từ TCT BD sang Công ty TNHH Đầu tư xây dựng Tân Phú?

- Về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 8-12-2016 khu đất 43 ha cho Công ty TNHH Đầu tư xây dựng Tân Phú với nội dung về giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất do hai bên tự thỏa thuận. Như vậy hợp đồng này đã không tuân thủ theo trình tự, thủ tục về xác định giá trị đất theo quy định của Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành.

Về giá trị chuyển nhượng khu đất 43 ha, hai bên góp vốn (TCT BD và Công ty Cổ phần Âu Lạc thành lập liên doanh là Công ty TNHH Đầu tư Tân Phú) để thực hiện dự án không đúng thời hạn như hợp đồng ký kết, nhưng khi chuyển nhượng khu đất 43 ha tại thời điểm tháng 12-2016 lại lấy giá thời điểm ký kết hợp đồng hợp tác liên doanh năm 2010 là 570.000 đồng/m2, tổng số tiền chuyển nhượng là 250,110 tỷ đồng, thấp hơn giá đất UBND tỉnh ban hành năm 2016 là 125,195 tỷ đồng. Như vậy, về giá chuyển nhượng khu đất 43 ha này thực hiện chưa bảo đảm nguyên tắc thị trường, công khai, minh bạch, qua đó đã làm thất thoát tiền của ngân sách Nhà nước nhiều tỷ đồng.

- Đối với việc chuyển nhượng 30% vốn góp tại Công ty TNHH Đầu tư xây dựng Tân Phú, trong quá trình thực hiện còn một số thiếu sót, hạn chế gì, thưa ông?

- Trước hết, về giá trị chuyển nhượng 30% vốn, theo quy định thì “việc chuyển nhượng vốn Nhà nước có liên quan đến quyền sử dụng đất phải tuân thủ quy định của Luật Đất đai”. TCT BD đã thuê các đơn vị xác định giá trị doanh nghiệp (trong đó có giá trị đất 43 ha), tuy nhiên kết quả xác định giá trị này chưa được Hội đồng thẩm định giá đất của tỉnh xem xét, thẩm định và trình UBND tỉnh quyết định theo Luật Đất đai năm 2013. Tỉnh ủy đã yêu cầu TCT BD phải thuê đơn vị tư vấn để xác định giá trị tăng thêm của phần góp vốn 30%.

Theo TCT BD, việc chuyển nhượng khu đất 43 ha cho Công ty TNHH Đầu tư xây dựng Tân Phú liên doanh là để thực hiện dự án, nhưng chỉ sau 3 tháng (ngày 13-3-2017) TCT BD có Công văn số 39/TCTY gửi Thường trực Tỉnh ủy xin chủ trương chuyển nhượng 30% vốn góp của TCT BD cho Công ty Cổ phần Bất động sản Âu Lạc theo phương thức thỏa thuận dựa trên cơ sở giá thẩm định của các đơn vị thẩm định giá có chức năng.

Như vậy, tổng công ty xin góp vốn thành lập liên doanh để thực hiện dự án, nhưng thực tế TCT BD không triển khai dự án theo đúng chủ trương của tỉnh mà đã chuyển nhượng đất và chuyển nhượng vốn góp vào liên doanh để thu lợi nhuận. Việc thực hiện này là không đúng với mục đích chủ trương tại Công văn số 1830-CV/TU ngày 17-8-2010 cũng như Công văn số 477- CV/TU ngày 29-8-2016 của Thường trực Tỉnh ủy về việc cho chủ trương tiếp tục thực hiện liên doanh góp vốn.

(còn tiếp)

PHƯƠNG LÊ (thực hiện)

 

Chia sẻ bài viết

LƯU Ý: BDO sẽ biên tập ý kiến của bạn đọc trước khi xuất bản. BDO hoan nghênh những ý kiến khách quan, có tính xây dựng và có quyền không sử dụng những ý kiến cực đoan không phù hợp. Vui lòng gõ tiếng việt có dấu, cám ơn sự đóng góp của bạn đọc.

Gửi file đính kèm không quá 10MB Đính kèm File
Quay lên trên