Quy định về xóa án tích trong Bộ luật Hình sự 2015

Cập nhật: 28-07-2018 | 16:03:32

 Án tích là việc người đã bị kết án (hình sự) và thi hành hình phạt mà chưa được xóa án. Sau khi thi hành bản án hình sự một thời gian nhất định thì người bị kết án được mặc nhiên xóa án tích hoặc được tòa án cấp chứng nhận xóa án tích. Người được xóa án tích coi như chưa bị kết án. Người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và người được miễn hình phạt không bị coi là có án tích. Xóa án tích là một chế định quan trọng, thể hiện nguyên tắc nhân đạo, dân chủ xã hội chủ nghĩa và tôn trọng quyền con người quy định trong Bộ luật Hình sự (BLHS) Việt Nam.

BLHS 2015 quy định 3 trường hợp được xóa án tích là: Đương nhiên được xóa án tích; xóa án tích theo quyết định của tòa án; xóa án tích trong trường hợp đặc biệt.

Đương nhiên được xóa án tích được áp dụng đối với người bịkết án không phải về các tội xâm phạm an ninh quốc gia và các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh quy định tại BLHS 2015, khi họ đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án và đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 70 BLHS. Người bịkết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từkhi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đóđãchấp hành xong hình phạt bổsung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn 1 năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng cho hưởng án treo; 2 năm trong trường hợp bị phạt tù đến 5 năm; 3 năm trong trường hợp bị phạt tù đến 15 năm; 5 năm trong trường hợp bị phạt tù 15 năm, chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án.

Trường hợp người bịkết án đang chấp hành hình phạt bổsung làquản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghềhoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân màthời hạn phải chấp hành dài hơn thời hạn quy định trên thìthời hạn đương nhiên được xóa án tích sẽ hết vào thời điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung. Người bịkết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi hết thời hiệu thi hành bản án, người đókhông thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn như đối với trường hợp chưa hết thời hiệu.

Xóa án tích theo quyết định của tòa án được áp dụng đối với người bịkết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia và các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh quy định tại BLHS 2015 khi họ đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án và đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 71 BLHS. Căn cứ mà tòa án quyết định xóa án tích là tính chất của tội phạm đã thực hiện, thái độ chấp hành pháp luật, thái độ lao động của người bị kết án. Người bịkết án được tòa án quyết định xóa án tích, nếu từkhi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đóđãchấp hành xong hình phạt bổsung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn 1 năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo; 3 năm trong trường hợp bị phạt tù đến 5 năm; 5 năm trong trường hợp bị phạt tù trên 5 đến 15 năm; 7 năm trong trường hợp bị phạt tù trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án. Trường hợp người bịkết án đang chấp hành hình phạt bổsung làquản chế, cấm cư trú, tước một số quyền công dân màthời hạn phải chấp hành dài hơn thời hạn quy định trên thìtòa án quyết định việc xóa án tích khi người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung. Người bịkết án được tòa án quyết định xóa án tích, nếu từ khi hết thời hiệu thi hành bản án, người đókhông thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn quy định tại khoản 2, Điều 71 BLHS.

Xóa án tích trong trường hợp đặc biệt: Trong trường hợp người bị kết án có những biểu hiện tiến bộ rõ rệt và đã lập công, được cơ quan, tổ chức nơi người đó công tác hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú đề nghị, thì tòa án quyết định việc xóa án tích nếu người đó đã bảo đảm được ít nhất một phần ba thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 70 và khoản 2 Điều 71 của BLHS 2015.

 Chương trình này được Hội Luật gia tỉnh Bình Dương và Báo Bình Dương cùng phối hợp thực hiện theo Công văn số 5748/UBND-NC ngày 18-12-2017 của UBND tỉnh Bình Dương. Chúng tôi rất mong nhận được thư, bài góp ý hoặc yêu cầu tư vấn xin gửi về địa chỉ: Số 26 đường Đoàn Thị Liên, phường Phú Lợi, TP.Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.  

Chia sẻ bài viết

LƯU Ý: BDO sẽ biên tập ý kiến của bạn đọc trước khi xuất bản. BDO hoan nghênh những ý kiến khách quan, có tính xây dựng và có quyền không sử dụng những ý kiến cực đoan không phù hợp. Vui lòng gõ tiếng việt có dấu, cám ơn sự đóng góp của bạn đọc.

Gửi file đính kèm không quá 10MB Đính kèm File
Quay lên trên