Các Khu công nghiệp sau 17 năm phát triển: Những vướng mắc và giải pháp phát triển

Thứ năm, ngày 16/08/2012
Theo dõi Báo Bình Dương trên

Theo kết quả rà soát tình hình hoạt động các khu công nghiệp (KCN) trên địa bàn của UBND tỉnh, tình hình thu hút đầu tư của các KCN, cũng như việc sản xuất, kinh doanh (SXKD) của các DN trong KCN đạt hiệu quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, bên cạnh các KCN hoạt động hiệu quả, vẫn còn một số KCN có tỷ lệ cho thuê rất thấp, thậm chí vướng giải tỏa đền bù (GTĐB) nên chưa triển khai xây dựng hạ tầng kỹ thuật (HTKT)! 

KCN VSIP I hiện đã lấp đầy 100% và được đánh giá là KCN kiểu mẫu không chỉ của tỉnh Bình Dương. Trong ảnh: Công nhân các DN trong KCN VSIP I vào ca                                       Ảnh: QUỐC CHIẾN

Toàn tỉnh hiện có 28 KCN với tổng diện tích đất quy hoạch 9.073 ha. Trong đó, 26 KCN với diện tích quy hoạch 8.371 ha đã chính thức đi vào hoạt động và thu hút đầu tư, đã cho thuê được 3.215 ha, đạt tỷ lệ lấp kín 56,7% diện tích. Trong đó, có 6 KCN đạt tỷ lệ 100% là Sóng Thần 1, Đồng An, Tân Đông Hiệp A, Việt Hương, VSIP I, Mỹ Phước II. 4 KCN đạt tỷ lệ trên 95% là Sóng Thần 2, Bình Đường, Bình An, VSIP II. 4 KCN đạt tỷ lệ trên 70% là Đồng An 2, Việt Hương 2, Mỹ Phước III, Tân Đông Hiệp B.

Theo đề án UBND tỉnh trình Chính phủ về việc điều chỉnh, bổ sung quy hoạch các KCN của tỉnh đến năm 2020, toàn tỉnh sẽ có 39 KCN tập trung với tổng diện tích quy hoạch là 19.456,86 ha. Trong đó, ngoài một số KCN hiện hữu bổ sung quy hoạch mở rộng còn có 8 KCN được thành lập mới, bao gồm: Lai Hưng, Cây Trường, Tân Bình, Tân Lập, Bình Mỹ, Tân Mỹ, Vĩnh Hòa, An Lập với tổng diện tích 5.000 ha.

Nhìn lại chặng đường 17 năm hình thành và phát triển, cho thấy chủ đầu tư các KCN đều rất năng động trong việc chủ động xây dựng hạ tầng, tìm kiếm khách hàng, thu hút đầu tư vào KCN. Tính đến giữa tháng 7-2012, các KCN đã thu hút được 1.523 dự án còn hiệu lực, trong đó trên 1.200 DN đã đi vào hoạt động SXKD. Các DN trong KCN đã xuất khẩu hàng hóa đến trên 30 nước, từng bước chú trọng nâng cao thị trường nội địa, duy trì tốc độ tăng trưởng. Chỉ tính riêng năm 2011, các KCN đạt doanh thu 7,95 tỷ USD, tăng khoảng 9,5% so năm 2010, kim ngạch nhập khẩu (KNNK) đạt 5,2 tỷ USD, tăng 9% so cùng kỳ, kim ngạch xuất khẩu (KNXK) đạt 3,7 tỷ USD, tăng 5% so cùng kỳ, chiếm khoảng 45% KNXK của tỉnh, nộp ngân sách 185 triệu USD, tăng 10% so năm 2010.

Từ khi thành lập đến nay, các DN trong KCN có tổng doanh thu 44 tỷ USD, KNNK đạt 29 tỷ USD, KNXK đạt 22 tỷ USD, nộp ngân sách Nhà nước gần 1 tỷ USD. Điều quan trọng nhất là các DN trong KCN đã giải quyết việc làm cho 342.000 lao động trong và ngoài tỉnh, với mức thu nhập bình quân khoảng 3,2 triệu đồng/người/tháng.

Đưa ra khỏi quy hoạch các KCN kém hiệu quả

Bên cạnh các KCN hoạt động hiệu quả nói trên, vẫn có những KCN thu hút đầu tư chậm. Đơn cử như KCN Rạch Bắp (An Tây, Bến Cát) được đầu tư xây dựng từ năm 2005, trên diện tích 278,6 ha. Tuy nhiên, nhiều năm liền KCN này vẫn không tiến hành đầu tư hoàn chỉnh HTKT, chưa xây dựng nhà máy xử lý nước thải và chưa thu hút được nhiều dự án đầu tư. Đến nay, KCN này chỉ cho thuê được 9,7 ha, đạt tỷ lệ 3,5%. Tương tự, KCN Đất Cuốc (xã Tân Thành, Tân Uyên) được xây dựng từ năm 2007 trên tổng diện tích 212 ha. Đến nay, KCN Đất Cuốc mới xây dựng HTKT đạt 18,8%; cho thuê được 67 ha, đạt tỷ lệ khoảng 30%. KCN Đại Đăng (phường Phú Tân, TP.TDM) được xây dựng từ năm 2005, tổng diện tích quy hoạch 274 ha, nhưng đến nay mới xây dựng HTKT được 17,5%; cho thuê được 84 ha, đạt tỷ lệ 30,7%. Sở dĩ KCN này tiến hành xây dựng hạ tầng chậm là vì vẫn còn một phần diện tích vướng giải tỏa, đền bù chưa thỏa thuận được nên bị người dân cản trở trong quá trình thi công.  

Đối với KCN không khả thi như KCN Xanh Bình Dương, UBND tỉnh sẽ xem xét đưa ra khỏi quy hoạch                Ảnh: TRỌNG MINH

Một số KCN tuy có tốc độ thu hút đầu tư khá hơn, nhưng cũng còn nhiều khó khăn, vướng mắc. KCN Tân Đông Hiệp A (phường Tân Đông Hiệp, TX.Dĩ An) mặc dù được xây dựng từ năm 2005, nhưng đến nay chủ đầu tư là Công ty Cổ phần Xây dựng và Kinh doanh bất động sản Dapark, vẫn chưa thu hết tiền thuê đất và phí hạ tầng. Còn KCN Tân Đông Hiệp B (thuộc 2 phường Tân Đông Hiệp và Tân Bình, TX.Dĩ An) xây dựng từ năm 2002, hiện đang gặp khó khăn trong việc GTĐB, nên chưa xây dựng HTKT hoàn chỉnh. KCN Bình An (phường Bình Thắng, TX.Dĩ An) thì gặp khó khăn do nguồn điện chưa ổn định...

Qua rà soát kết quả hoạt động thực tế của các KCN trên địa bàn, UBND tỉnh đã chỉ đạo các ngành chức năng có biện pháp giải quyết khó khăn, vướng mắc cho các KCN. Theo đó, UBND tỉnh cam kết sẽ tiếp tục triển khai đầu tư nâng cấp, mở rộng các công trình HTKT ngoài hàng rào KCN, nhất là hệ thống giao thông liên vùng, nhằm tạo các điều kiện thuận lợi để thu hút các dự án đầu tư vào KCN. Về phía các chủ đầu tư, cần tăng cường công tác thu hút đầu tư và đầu tư thi công đồng bộ các công trình HTKT; tập trung hoàn chỉnh công tác GTĐB. Trường hợp các KCN không thể thu hút đầu tư, có thể xem xét chuyển đổi chức năng sang khu đô thị, khu dân cư (KDC). Đối với chủ đầu tư không còn khả năng tài chính thì xem xét sáp nhập hoặc cho chuyển nhượng dự án cho các nhà đầu tư khác có năng lực để tiếp tục triển khai dự án hiệu quả. Đối với KCN không khả thi như KCN Xanh Bình Dương, diện tích 200 ha, UBND tỉnh đã trình và được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận phương án đưa ra khỏi quy hoạch.

Các nhóm giải pháp phát triển KCN

Để phát triển các KCN trên địa bàn tỉnh theo hướng nhanh và bền vững, UBND tỉnh đã đề ra giải pháp nâng cao chất lượng xây dựng và thực hiện quy hoạch KCN, phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, gắn với quy hoạch ngành và quy hoạch vùng. Theo đó, tỉnh chú trọng thu hút đầu tư các ngành CN có giá trị gia tăng và hàm lượng công nghệ cao, phát triển CN sạch, để tăng giá trị sản phẩm và bảo vệ môi trường, đổi mới công nghệ hiện đại, tiên tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm của DN, để nâng cao năng lực cạnh tranh của DN trong hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện tốt cải cách hành chính, tạo môi trường đầu tư thông thoáng; nghiên cứu xây dựng mô hình KCN theo hướng KCN chuyên ngành, chuyên môn hóa cao nhằm khai thác lợi thế về tài nguyên, lao động của địa phương; thực hiện thí điểm chương trình xây dựng nhà ở cho công nhân, quy hoạch xây dựng HTKT đồng bộ, kết hợp quy hoạch định hướng các KDC mới, các khu đô thị vệ tinh, các ngành CN phụ trợ, dịch vụ.

Để thu hút đầu tư vào các KCN mạnh hơn nữa, UBND tỉnh cũng đã đề ra và quyết liệt chỉ đạo thực hiện các nhóm giải pháp về cơ chế chính sách, như đưa KCN vào danh mục địa bàn ưu đãi đầu tư, để DN trong KCN được hưởng các ưu đãi về thuế thu nhập DN, thuế XNK. Theo đó, chính sách thuế cũng được tính toán, đề xuất phải mang tính lâu dài, ổn định để các nhà đầu tư yên tâm đầu tư SXKD lâu dài tại Việt Nam. Đặc biệt, đối với các dự án nhà ở cho công nhân, cần ưu đãi mạnh hơn, có thể xem xét bổ sung hình thức Nhà nước và DN cùng đầu tư làm nhà ở cho công nhân.

Để xây dựng được nguồn nhân lực chất lượng cao, xây dựng mối quan hệ lao động ổn định hài hòa, UBND tỉnh đã xây dựng và tập trung chỉ đạo thực hiện nhóm giải pháp về giáo dục, quy hoạch nhà ở và các công trình phúc lợi. Theo đó, Nhà nước sẽ sử dụng vốn ngân sách để đầu tư các công trình hạ tầng văn hóa xã hội như nhà văn hóa, trường học, bệnh viện... nhằm phát triển các loại hình dịch vụ, đáp ứng các nhu cầu cần thiết cho người lao động làm việc trong KCN và dân cư xung quanh, nhất là những hộ dân bị giải tỏa; tiếp tục hoàn thiện và phát triển hệ thống các trường nghề, liên kết chặt chẽ với các KCN, gắn trường học với DN; phát triển hệ thống các trường đại học, cao đẳng, nhằm cung cấp nguồn lao động có trình độ cho các KCN, thực hiện đào tạo theo đơn đặt hàng của các DN trong và ngoài nước trên địa bàn.

BẢO ANH