Sau một năm, vụ tấn công ngày 7/10/2023 đã chứng minh nền chính trị tổng thống Mỹ gắn chặt với quỹ đạo của các sự kiện ở Trung Đông như thế nào. Mỗi bên đều tác động lên bên kia, thường theo cách gây tổn hại cho cả hai. Nhưng, dư luận cho rằng, tác động của cuộc chiến Trung Đông có thể “bẻ lái” cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ theo cách bất ngờ nhất.
Chính sách đối ngoại hiếm khi quan trọng trong các cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ, nhưng năm nay có thể là một ngoại lệ. Trong cuộc đua có khả năng được quyết định bởi biên độ nhỏ ở một số ít tiểu bang, hậu quả từ các cuộc xung đột ở Gaza, Bờ Tây và Lebanon, với một cuộc chiến tranh tiềm tàng với Iran đang rình rập, có thể có tác động đáng kể đến triển vọng của bà Kamala Harris.
Mặt khác, kết quả của cuộc bầu cử ngày 5/11 sẽ ảnh hưởng đến Trung Đông theo những cách không thể đoán trước và có khả năng tạo ra những bước ngoặt quan trọng. Bất chấp những giới hạn rõ ràng về khả năng kiểm soát Israel, đối tác thân cận nhất của Washington, Mỹ vẫn là cường quốc bên ngoài có ảnh hưởng nhất trong khu vực.
Phó Tổng thống Kamala Harris và cựu Tổng thống Donald Trump.
Sự ủng hộ kiên định của Tổng thống Joe Biden đối với Israel trước tình trạng thương vong dân sự hàng loạt ở Gaza và sự bất chấp của Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu đối với những nỗ lực do Mỹ dẫn đầu nhằm thiết lập lệnh ngừng bắn ở Gaza và Lebanon, đã khiến nhiều thành viên đảng Dân chủ cấp tiến xa lánh.
Bà Kamala Harris không hề tách mình ra khỏi chính sách Trung Đông của ông Biden theo bất kỳ cách nào đáng kể và hiện đang phải đối mặt với một cuộc chiến đặc biệt khó khăn ở tiểu bang Michigan, nơi có cộng đồng người Mỹ gốc Arab đông đảo. Việc mất tiểu bang đó sẽ làm phức tạp đáng kể con đường trở thành tổng thống của bà Harris.
Sự lan rộng của chiến tranh và bùng nổ xung đột công khai giữa Israel và Iran có khả năng ảnh hưởng đến chiến dịch tranh cử tổng thống vượt xa tiểu bang Michigan, kết hợp những nghi ngờ về năng lực chính sách đối ngoại của nhóm lãnh đạo đương nhiệm Biden-Harris với mối đe dọa về việc giá dầu tăng vào thời điểm tồi tệ nhất có thể đối với bà Harris. Đây có thể là “bất ngờ tháng 10” chí mạng của cuộc bầu cử này.
“Bạn đang chứng kiến người Mỹ được sơ tán khỏi Beirut ngay bây giờ và điều đó thực sự giúp ích cho câu chuyện chung của ông Donald Trump về “thế giới trở nên hỗn loạn hơn với những kẻ yếu đuối này””, Daniel Levy, người đứng đầu Viện Chính sách dự án Hoa Kỳ/Trung Đông cho biết.
Cũng giống như Trung Đông có thể tác động đến chính trị Mỹ nhiều hơn bất kỳ khu vực nước ngoài nào khác trên thế giới, chính trị Mỹ cũng có ảnh hưởng rõ ràng và liên tục đến Trung Đông. Sự ủng hộ thể hiện đối với Israel đã trở thành khẩu hiệu cho các ứng cử viên tổng thống của cả đảng Cộng hòa và đảng Dân chủ, hầu như không liên quan đến hành động của Israel.
Dana Allin, thành viên cấp cao tại Viện Nghiên cứu chiến lược quốc tế, chỉ ra rằng sự bất khả xâm phạm của Israel trên chính trường Mỹ đã phát triển theo thời gian. “Đây không phải là cách các tổng thống nói trong thời đại ông Richard Nixon. Có sự trớ trêu trong lòng trung thành này vì các mục tiêu và thế giới quan tương ứng của hai đồng minh chưa bao giờ xa nhau hơn thế”, ông Allin lập luận.
Ông Netanyahu đã mạnh mẽ thực thi lệnh cấm của Mỹ đối với việc sử dụng đòn bẩy của mình đối với Israel. Ông đã làm như vậy bằng cách huy động sức mạnh của tình cảm ủng hộ Israel tại Mỹ chống lại bất kỳ tổng thống nào cố gắng kiềm chế ông. Khi ông Barack Obama tuyên bố nên dừng xây dựng các khu định cư ở Bờ Tây, ông Netanyahu đã gọi điện đe dọa và phớt lờ ông. Khi ông Biden tạm dừng việc chuyển giao bom 2.000 cân do Mỹ sản xuất đang được sử dụng để san phẳng các khu dân cư ở Gaza, Thủ tướng Israel tuyên bố điều đó là “vô lương tâm” và sau đó đã chấp nhận lời mời của đảng Cộng hòa để phát biểu trước Quốc hội và gặp ông Donald Trump.
Với ông Biden, ông Netanyahu đã tấn công một Tổng thống Mỹ có mối quan hệ cá nhân với sự nghiệp của Israel hơn bất kỳ người tiền nhiệm nào của ông, người đã bay đến Israel vài ngày sau vụ tấn công ngày 7/10 và thực sự ôm ông Netanyahu trên đường băng sân bay. Thủ tướng Israel vẫn phản đối ông Biden ngay khi có dấu hiệu nghi ngờ đầu tiên.
Thông điệp của ông Netanyahu rất rõ ràng: Bất kỳ sự do dự nào trong việc cung cấp vũ khí hoặc hỗ trợ ngoại giao sẽ phải trả giá chính trị nặng nề. Nhà lãnh đạo Mỹ chịu trách nhiệm sẽ bị coi là kẻ phản bội Israel.
Kết quả của chiến thuật này là sự miễn cưỡng sâu sắc từ phía các tổng thống kế tiếp trong việc sử dụng đòn bẩy của Mỹ, với tư cách là nhà cung cấp vũ khí lớn nhất của Israel cho đến nay, để kiềm chế những hành động thái quá của ông Netanyahu theo bất kỳ cách có ý nghĩa nào, ở Gaza, Bờ Tây hoặc Lebanon.
Nếu không có đòn bẩy đó, một loạt sáng kiến ngừng bắn của Mỹ trong năm nay đã không đi đến đâu, bị ông Netanyahu phớt lờ theo những cách đôi khi mất thể diện đối với Mỹ với tư cách là một siêu cường và được cho là đối tác thống trị trong mối quan hệ.
Dahlia Scheindlin, một nhà phân tích chính trị có trụ sở tại Tel Aviv, cho biết: “Ông Netanyahu đã dành phần lớn sự nghiệp của mình để biến nước Mỹ thành một vấn đề đảng phái, cố gắng thuyết phục người Israel rằng vận mệnh của Israel gắn liền với các nhà lãnh đạo Cộng hòa”.
Không rõ liệu chính quyền của bà Harris có định hướng theo một lộ trình khác biệt đáng kể so với ông Biden hay không. Một mặt, bà Harris không có cùng lịch sử cá nhân với Israel như ông Biden và nếu thắng cử vào tháng 11, bà sẽ được tự do hơn để thử nghiệm thay đổi chính sách.
Mặt khác, việc giành chiến thắng trong cuộc bầu cử trước sự bất mãn lan rộng của đảng Dân chủ về Trung Đông có thể thuyết phục bà Harris rằng mối đe dọa của phe tiến bộ đối với vấn đề này có thể bị bỏ qua.
Ông Scheindlin cho biết: “Nếu kịch bản là bà Kamala Harris giành chiến thắng và tiếp tục các chính sách của ông Joe Biden, tức là: chúng ta muốn làm điều đúng đắn, nhưng về cơ bản chúng ta sẽ để Israel làm những gì họ muốn. Hoặc, bà ấy có thể trở nên cứng rắn hơn một chút, theo phe tiến bộ hơn của đảng Dân chủ và nói rằng: 'Chúng ta sẽ bắt đầu áp dụng luật pháp Mỹ đối với việc xuất khẩu vũ khí của chúng ta””.
Có vẻ gần như chắc chắn rằng quyết định của ông Netanyahu chịu ảnh hưởng bởi dự đoán về việc ông Donald Trump sẽ trở lại Nhà Trắng và ông không đơn độc. Chế độ quân chủ ở Saudi Arabia cũng có thể đang chờ ông Trump trở lại trước khi ký một thỏa thuận bình thường hóa ngoại giao với Israel, mặc dù tình hình thù địch hiện tại khiến một thỏa thuận như vậy khó có thể xảy ra trong tương lai gần.
Với việc ông Donald Trump trở lại Nhà Trắng, ông Netanyahu sẽ không phải đối phó với sự phản đối của Mỹ đối với việc Israel kiểm soát chặt chẽ hơn, thậm chí là sáp nhập khu Bờ Tây. Năm 2019, chính quyền ông Donald Trump đã công nhận chủ quyền của Israel đối với Cao nguyên Golan đã sáp nhập. Cựu đại sứ của ông Trump tại Israel David Friedman đã thử vai trong nhiệm kỳ thứ hai với cuốn sách mới “One Jewish State”, lập luận rằng Israel nên nuốt trọn khu Bờ Tây.
“Với ông Donald Trump ở Nhà Trắng, việc sáp nhập trở thành một khả năng tích cực hơn nhiều”, Khaled Elgindy, một thành viên cấp cao tại Viện Trung Đông, cho biết. “Đây là một chính quyền thậm chí còn ít quan tâm đến cuộc sống của người Palestine hơn chính quyền hiện tại. Họ thậm chí sẽ không nói suông về viện trợ nhân đạo”.
Không ai dám chắc liệu một tổng thống mới đắc cử như ông Donald Trump có giúp ông Netanyahu đạt được mục tiêu chiến lược lâu dài của mình hay không: chiêu mộ Mỹ cho một cuộc tấn công quyết định vào chương trình hạt nhân của Iran.
Chính sách Trung Đông trong nhiệm kỳ đầu tiên của ông Donald Trump được xây dựng xung quanh sự thù địch với Iran. Trong những tuần cuối cùng tại nhiệm, ông đã bật đèn xanh cho vụ ám sát chỉ huy Lực lượng Vệ binh Cách mạng Qassem Suleimani. Mặt khác, ông Trump cũng đã hủy một cuộc tấn công tên lửa vào Iran tháng 6/2019 vì cho rằng thương vong dân sự có thể xảy ra là không tương xứng đối với vụ bắn hạ máy bay không người lái của Mỹ. Và, một trong những điểm nhất quán trong chính sách đối ngoại của ông Trump là sự phản đối của ông đối với sự can dự của Mỹ vào các cuộc chiến tranh ở nước ngoài.
Ông Netanyahu có thể hy vọng ông Trump giành chiến thắng vào tháng 11, nhưng sự ủng hộ tiếp theo từ Washington có thể mang tính giao dịch nhiều hơn và ít tình cảm hơn so với ông Biden. Ram Ben-Barak, cựu Giám đốc Tình báo Israel lo ngại rằng về lâu dài, sự kết hợp giữa hai ông Trump và Netanyahu có thể sẽ làm hỏng mối quan hệ cơ bản giữa hai quốc gia của họ.
“Điều tạo nên mối quan hệ của chúng ta với Mỹ là chia sẻ những giá trị giống nhau”, ông Ben-Barak nói. “Khoảnh khắc bạn có một Thủ tướng Israel như chúng ta có ngày hôm nay và một Tổng thống Mỹ như ông Donald Trump, tôi không chắc mối quan hệ này sẽ tiếp tục”.
Vào cuối nhiệm kỳ tổng thống của mình, ông Trump đã gây mất lòng với khắp thế giới, chỉ Israel là một ngoại lệ sau khi ông chuyển Đại sứ quán Mỹ từ Tel Aviv đến Jerusalem, công nhận thành phố này là thủ đô của Israel trong khi hầu hết các quốc gia khác không công nhận.
Chính quyền của ông Donald Trump đã đàm phán các thỏa thuận để bình thường hóa quan hệ giữa Israel và một số quốc gia Arab. Chính quyền này cũng đưa ra đề xuất hòa bình Israel-Palestine của riêng mình, cho phép Israel sáp nhập khoảng 30% khu Bờ Tây. Kế hoạch này bao gồm tầm nhìn về một nhà nước Palestine bao gồm một số vùng đất bị bao quanh bởi lãnh thổ Israel, có nhiều điểm tương đồng với các đề xuất của phe cánh hữu Israel được mô tả là sao chép hệ thống quê hương của người da đen theo chế độ phân biệt chủng tộc của Nam Phi.
Ngoại trưởng Rex Tillerson cho biết, sau khi Tổng thống Trump ám chỉ ông Netanyahu có thể là trở ngại thực sự đối với hòa bình với người Palestine, nhà lãnh đạo Israel đã công bố một đoạn video bị chỉnh sửa về việc Tổng thống Palestine Mahmoud Abbas được cho là kêu gọi giết trẻ em. Sau đó, lập trường của ông Trump đã chuyển sang chống lại người Palestine.
Theo CAND