Cùng với xẻ dọc Trường Sơn, mở đường mòn Hồ Chí Minh, một con đường Bắc - Nam bí mật trên biển - Đường Hồ Chí Minh trên biển đã được mở vào ngày 23-10-1961. Đoàn 759 - Đoàn tàu không số (Lữ đoàn 125) là lực lượng vận tải chiến lược trên con đường biển này, đã thực hiện xuất sắc nhiệm vụ chi viện cho chiến trường miền Nam. Đường Hồ Chí Minh trên biển và Đoàn tàu không số với bao kỳ tích, đã đi vào lịch sử dân tộc như một chiến công huyền thoại, là một biểu tượng của bản lĩnh chính trị và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của dân tộc ta trong thời đại Hồ Chí Minh.
Đoàn tàu không số vận chuyển vũ khí trên Đường Hồ Chí Minh trên biển để chi viện cho chiến trường miền Nam. Ảnh: T.L
Thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị, theo quyết định của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh, một đơn vị đặc nhiệm được thành lập vào tháng 7-1959, có biệt danh là Đoàn 759, lúc đầu là đơn vị nhỏ cỡ tiểu đoàn được tổ chức dưới hình thức “Tập đoàn đánh cá Sông Gianh” thuộc Tổng cục Hậu cần; đến ngày 23-10-1961, trực thuộc Bộ Quốc phòng. Tháng 8-1963, Trung ương quyết định giao Đoàn 759 cho Bộ Tư lệnh Hải quân, đổi tên thành Lữ đoàn 125. Đường Hồ Chí Minh trên biển gồm 5 tuyến đi có tổng chiều dài gần 12.000 hải lý (hơn 22.000km) là chiếc cầu nối giữa hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam, chi viện trực tiếp cho những chiến trường xa nhất, khó khăn nhất là Nam bộ, Nam Trung bộ và vùng ven biển Khu 5, trở thành con đường huyền thoại với biết bao kỳ tích anh hùng.
Sau chuyến tàu đầu tiên thất bại, Đoàn 759 đã tổ chức rút kinh nghiệm, tính toán cách tổ chức chặt chẽ và thông minh hơn. Qua 14 năm ròng rã (1961-1975), những chuyến tàu không số của Đoàn 759 đã lập công xuất sắc, đưa 152.876 tấn vũ khí, trang bị kỹ thuật, thuốc chữa bệnh cho miền Nam; đưa đón 80.026 lượt cán bộ, chiến sĩ (trong đó có hàng trăm cán bộ cao cấp của Đảng, của quân đội) vào miền Nam và từ miền Nam ra miền Bắc, vượt qua gần 4 triệu hải lý an toàn. Những lúc tàu thuyền ta bị địch bao vây, không thể thoát khỏi sự truy lùng của địch, những con tàu không số đã biến thành những khối thuốc nổ vào tàu địch. Cán bộ, chiến sĩ trên các con tàu đã chiến đấu 300 lần với địch và bị hơn 1.200 lần máy bay địch bắn phá nhưng vẫn bảo đảm được nhiệm vụ. Trong 168 con tàu ra đi từ năm 1966 đến năm 1972, có 8 trường hợp phải phá tàu. “Trong trường hợp đấu trí không nổi, đọ sức không thắng, hết đường quay về thì phải bằng lòng can đảm và ý chí quật cường phá tàu để xóa hết tang vật. Không có một con tàu nào đầu hàng”.
Để đối đầu với quân địch, không chỉ cần có sự quyết tâm, tinh thần chiến đấu dũng cảm ngoan cường, mưu trí, sáng tạo của cán bộ, chiến sĩ, mà còn cần phải có trang bị khí tài chất lượng. Nhờ có vũ khí từ các chuyến tàu không số chuyển vào, ta đã liên tiếp có nhiều trận chiến thắng lớn, như trận Bá Gia - Vạn Tường (tháng 7-1965 ở tỉnh Quảng Ngãi), quân giải phóng Quân khu 5 đã tiêu diệt gọn 1 chiến đoàn, 2 tiểu đoàn, phá hủy 15 xe, bắn rơi 18 máy bay địch. Trận Vạn Tường, trận đánh trực diện với quân Mỹ, hạ 916 lính Mỹ, tiêu diệt 18 xe tăng, bắn rơi 22 máy bay Mỹ. Trận Bàu Bàng (ngày 12-11-1965 tại Bình Dương), Đoàn 759 (Lữ đoàn 125) đã tổ chức gấp rút 4 tàu chở 187 tấn vũ khí vào miền Tây Nam bộ, đặc biệt có 3 quả thủy lôi lớn, súng tự động AKA, kính ngắm và súng bắn tỉa để kịp thời trang bị cho các sư đoàn chủ lực, trong đó một số trung đoàn được trang bị vũ khí hiện đại của Liên Xô, đã bao vây, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 2.000 lính Mỹ, Sư đoàn Bình Dã (F9), đã nhanh chóng diệt 1 tiểu đoàn Mỹ (Lữ đoàn 173). Trận đánh chìm tàu chiến Mỹ Ballon Rouge Victory trên sông Lòng Tàu (huyện Cần Giờ, TP.Hồ Chí Minh) bằng những quả thủy lôi khổng lồ KB của Liên Xô, chở từ miền Bắc vào (mỗi quả nặng 1.075kg), do bộ đội Rừng Sác thực hiện đã làm hoảng loạn tinh thần của quân lính Mỹ. Các chiến thắng đó đã khẳng định quyết tâm của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương: “Không sợ quân Mỹ, có thể đương đầu với quân Mỹ và có thể chiến đấu giành thắng lợi trong chiến tranh cục bộ”.
Trong cuộc Tổng tiến công mùa Xuân năm 1975, để thực hiện Chỉ thị “thần tốc và thần tốc hơn nữa” của Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, phải kịp thời chuyển thật nhanh những vũ khí hạng nặng và hàng chục ngàn chiến sĩ vào miền Tây, kịp thời hợp đồng tác chiến với cánh quân đường bộ, Đoàn 759 đã vận chuyển thần tốc 130 lần với 143 chuyến tàu chở 8.721 tấn vũ khí hạng nặng, 50 xe tăng và đại pháo, đưa 18.741 cán bộ, chiến sĩ vượt 6.572 hải lý để kịp thời tham gia chiến đấu trong chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Đường Hồ Chí Minh trên biển cũng “muôn hình vạn trạng” như Đường Hồ Chí Minh trên bộ. Đoàn 759 đã sáng tạo nhiều phương thức khác nhau mà có lẽ cũng khó tìm thấy một tiền lệ nào trong lịch sử vận tải đường biển của loài người. Có những phương tiện thông thường như tàu biển, vận chuyển đột xuất những khối lượng lớn đi ra ngoài khơi xa, ban đêm tìm cơ hội thuận lợi đột nhập vào một bãi nào đó đã được hẹn trước. Lại có những thuyền đánh cá với những chiến sĩ trút bỏ áo lính để làm thường dân với thuyền hai đáy, sử dụng cho những cự ly xuất phát từ những bến phía Bắc vĩ tuyến 17 (Quảng Bình) rồi đi gấp trong đêm vào các tỉnh phía Nam, có những chặng phải đi hai hoặc ba đêm. Cứ gần sáng, những chiếc thuyền đánh cá này phải tạm thời vào gần bờ để lẩn tránh tại những cơ sở đã được chuẩn bị sẵn sàng, trời tối lại lên đường. Một cơ hội tốt nữa là trong dịp Tết Nguyên đán, rất nhiều chuyến đi bắt đầu từ ngày 30, thậm chí mồng 1 tết. Nhưng tết chỉ là một thời gian ngắn ngủi trong năm. Phần lớn thời gian vận chuyển ngoài tết là thời gian có gió bão, tàu tuần tiễu của địch không đi được, máy bay trinh sát của địch không nhìn thấy. Đó là cơ hội lên đường. Tất cả các bến phà có chung một tính chất là tạo bất ngờ, theo khí phách “vào hang hùm thì không sợ cọp” đòi hỏi con người phải gan dạ, đối diện tình hình khó khăn, nguy hiểm không được bối rối và manh động.
Năm tháng sẽ qua đi, nhưng Ðường Hồ Chí Minh trên biển mãi mãi là niềm tự hào của quân đội ta, nhân dân ta; là biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, của trí thông minh, lòng dũng cảm, ý chí sắt đá, quyết tâm giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước của dân tộc ta… Ðó cũng là biểu hiện sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân ta, đặc biệt là của cán bộ, chiến sĩ Ðoàn 759 (Lữ đoàn 125), Hải quân nhân dân Việt Nam anh hùng; ròng rã 14 năm đã bền bỉ, mưu trí, dũng cảm. Trong đó, nhiều đồng chí cùng với những con tàu không số đã mãi mãi ở lại với biển cả, với non sông đất nước, tô thắm thêm truyền thống vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Đoàn 759 (Lữ đoàn 125) với những chiếc tàu không số - những ngôi sao sáng chói trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đã đi vào những trang sử đặc biệt chiến tranh nhân dân huyền thoại của Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
Riêng năm 1963, Đoàn 759 đã tổ chức được 28 chuyến tàu chở 1.318 tấn vũ khí vào chiến trường miền Nam. Số vũ khí này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc tạo ra những chiến thắng có ý nghĩa bước ngoặt ở miền Nam, trong đó có trận Ấp Bắc vang dội (ngày 2-1- 1963), tạo đà cho việc liên tiếp đánh thắng nhiều trận, diệt Mỹ trên chiến trường miền Nam với tinh thần “Bám lưng Mỹ mà diệt”. Ta phá tan 1.891 đồn bót, phá dỡ 623 đồn bót ở miền Trung Nam bộ và Tây Nam bộ, mở ra khả năng đánh bại “Chiến thuật trực thăng vận”, “Thiết xa vận” của Mỹ. Chiến thắng đó đã làm cho ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn dao động. Tỉnh trưởng An Xuyên (nay là Cà Mau) đã báo cáo khẩn cấp về Phủ Tổng thống ngụy (ngày 15-9-1963): “Vũ khí của Việt Cộng đã vượt ra ngoài ước tính của chúng tôi. Việt Cộng đã dùng cối 81mm, đại liên 12,7mm, DK 275, là những thứ mà quân đội Việt Nam Cộng hòa chưa có”.
P.V (tổng hợp)