Dưới góc nhìn của chuyên gia: Vì sao “dòng chảy” tín dụng tắc nghẽn?

Cập nhật: 02-10-2012 | 00:00:00

 Ngay từ đầu năm, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã khống chế hạn mức tăng trưởng  tín dụng đối với các ngân hàng (NH) thương mại theo từng nhóm, đề ra mục tiêu tăng  trưởng tín dụng khoảng 15% nhằm đạt mức lạm phát kỳ vọng trong năm 2012. Đến nay,  mục tiêu tăng trưởng tín dụng tiếp tục được NHNN hạ xuống còn 8 - 10%. Tín dụng tăng  trưởng thấp, trong khi vốn huy động vẫn tăng khá, cho thấy sự tắc nghẽn của “dòng  chảy” tín dụng từ hệ thống NH vào nền kinh tế, mà cụ thể là đến các doanh nghiệp (DN)  để đưa vào sản xuất. Trao đổi với P.V Báo Bình Dương, tiến sĩ Lê Thẩm Dương (Đại học  Ngân hàng TP.HCM) đã có những phân tích chuyên sâu về vấn đề này: 

Tăng trưởng tín dụng  đạt thấp 

Để lý giải vì sao tăng trưởng  tín dụng đạt rất thấp so với mục  tiêu ban đầu, cần phải nhìn vào  tình hình kinh tế vĩ mô cả thế giới  và trong nước. Tất cả đều có  những biến động bất thường nên  các dự báo trở nên khó khăn,  khó lường. Thêm nữa, do hậu  quả từ sự yếu kém của nền kinh  tế nói chung những năm trước  để lại cũng như hậu quả rủi ro  hệ thống. Những yếu tố này tạo  ra một nút thắt quan trọng:

 Về phía DN sức “đề kháng”  đã hết; một số đã “chết hẳn”, một  số “chết lâm sàng”, hàng tồn kho  tăng quá cao, tài sản ách tắc,  cộng thêm khả năng quản trị hạn  chế… dẫn đến chuẩn vay vốn từ  các NH không đạt trong khi các  NH hạ chuẩn vay là không thể.  Chính vì thế, tín dụng khó mà tìm  được đầu ra.    Sản xuất nhiều mà không tiêu thụ được nên lượng hàng tồn kho tăng cao, DN ngán ngại vay vốn khiến “dòng chảy” tín dụng bị tắc nghẽn (Ảnh: H.N)

Về phía các NH, tỷ lệ nợ xấu  tăng quá cao. Vì vậy, nếu NH  tiếp tục cho vay, với tình hình khó  khăn của nền kinh tế, cụ thể là  của DN hiện nay, NH lại phải đối  mặt với nợ xấu tiếp tục tăng cao  hơn. Không cho vay thì không  tăng trưởng tín dụng, nhưng nếu  cho vay với chuẩn vay của DN  hiện nay thì NH không dám mạo  hiểm vì dễ mất vốn. Cái khó là  cũng có một số DN đạt chuẩn  vay thì họ lại không vay do sức  “tiêu hóa” vốn kém. Bởi hàng  tồn kho đang chất đống thì DN  vay vốn để làm gì? Và, một khi  đầu ra của tín dụng cho DN tắc  nghẽn, các NH liền tìm phương  án đẩy vốn vào khu vực phi sản  xuất, xây dựng, bất động sản và  tiêu dùng. Tuy nhiên, khi đẩy  vốn sang các khu vực này, dù  chuẩn vay dễ chịu hơn nhưng  lãi suất còn ở mức khá cao, thị trường chưa hấp dẫn, cộng với  sức mua của người dân giảm,  nên đầu ra tín dụng ở những khu  vực này cũng không mạnh!

Doanh nghiệp và  ngân hàng đều thiệt! 

Để giải quyết nút thắt dòng  chảy tín dụng hiện nay cần  hướng các giải pháp tập trung  vào 3 đối tượng: Nhà nước -  ngân hàng - doanh nghiệp.  Một mặt, các NH trên thực tế  đã hạ lãi suất xuống dưới 15%  và tung ra các gói lãi suất thấp;  Nhà nước tích cực phát triển thị  trường mua nợ để giải quyết nợ  xấu, đẩy nhanh tiến độ các công  trình xây dựng cơ bản, giải ngân  thật nhanh nhằm đẩy lượng tiền  ra, qua đó giúp cho việc tiếp cận  tín dụng tốt hơn; DN trước mắt  phải bằng mọi cách giải quyết  bài toán hàng tồn kho. 

“Tốc độ tăng trưởng tín  dụng từ nay đến cuối năm  còn phụ thuộc nhiều vào diễn  biến tình hình chung có đột  biến bất thường nào không,  chẳng hạn như những “cú  sốc” tâm lý hay diễn biến  giá vàng thế giới lên hay  xuống, có thể tác động vào  việc gửi tiền hay rút tiền ồ  ạt của người dân, gây đảo  lộn hệ thống. Nếu không có  những “cú sốc” này, cộng với  các giải pháp khơi thông tín  dụng đã ngấm, đặc biệt là  thời điểm cuối năm khi mà  quy luật thời vụ cho thấy cầu  tăng, hàng tồn kho giảm,  lượng DN thành lập mới tăng  lên, thì chiều hướng và tốc  độ “dòng chảy” tín dụng sẽ  tăng theo. Tất nhiên, do các  trở ngại còn quá lớn nên mục  tiêu tăng trưởng tín dụng 15%  trong năm 2012 sẽ khó đạt”.

(Tiến sĩ Lê Thẩm Dương) 

Thực tế, với việc hướng các  giải pháp vào 3 đối tượng này,  tình hình đã có những cải thiện,  hàng tồn kho bước đầu có dấu  hiệu giảm, gói hỗ trợ lãi suất đang  phát huy tác dụng. Tuy vậy, cũng  phải thừa nhận liều lượng của  các giải pháp này chưa đủ so với  yêu cầu từ thực tế. Nợ xấu quá  lớn, Nhà nước không giải quyết  nổi, trong khi thị trường mua nợ  lại chưa hoàn chỉnh. Hàng tồn  kho, với tình hình thị trường sụt  giảm, cũng chỉ có thể kích thích  tiêu thụ, khó giải quyết dứt điểm.  Do vậy, khi mà các giải pháp để  thông nghẽn cho dòng chảy tín  dụng chưa chạy hết công suất  thì tín dụng cũng khó mà tăng  trưởng theo kỳ vọng. 

Các giải pháp khơi thông  dòng tín dụng như trên đang  được Nhà nước chỉ đạo thực hiện  rất tích cực. Tuy nhiên, để cải  thiện tình hình, điều quan trọng là  làm sao phải kích được cầu lên, hàng tồn kho qua đó mới vơi đi  được. Kích cầu phải hướng đến  2 khu vực. Một là kích cho sản  xuất, cụ thể là khi các công trình  xây dựng khởi công, xi măng, sắt  thép tồn kho sẽ giảm; sản xuất đi  lên, các DN thành lập mới đi vào  hoạt động… cạnh đó phải kích tiêu  dùng mạnh lên bằng các chính  sách giảm thuế. Ngoài ra, để xử  lý nợ xấu, công ty mua bán nợ  của Bộ Tài chính phải hoạt động  thật hiệu quả. Các địa phương  cũng cần tổ chức cho các NH  gặp gỡ DN… Thêm vào đó, nếu  các quỹ bảo lãnh tín dụng của  địa phương phát huy tác dụng sẽ  giải quyết được câu chuyện DN  thiếu tài sản bảo đảm. Tuy nhiên,  trên hết các NH phải xác định rõ  là một khi không giải ngân được  thì cả DN và NH đều thiệt! Nếu  thực hiện tốt các giải pháp này,  tình hình tăng trưởng tín dụng sẽ  được cải thiện, dòng vốn sẽ lưu  thông vào sản xuất - kinh doanh,  góp phần vào tăng trưởng chung  của nền kinh tế. 

THÀNH SƠN (ghi) 

Chia sẻ bài viết

LƯU Ý: BDO sẽ biên tập ý kiến của bạn đọc trước khi xuất bản. BDO hoan nghênh những ý kiến khách quan, có tính xây dựng và có quyền không sử dụng những ý kiến cực đoan không phù hợp. Vui lòng gõ tiếng việt có dấu, cám ơn sự đóng góp của bạn đọc.

Gửi file đính kèm không quá 10MB Đính kèm File
Quay lên trên