Các đồng chí Tư Mau (bên trái), Lê Đức Thọ và Bông Văn Dĩa chụp ảnh ở Cà Mau
Chưa từng có trong lịch sử hàng hải
Đi trên những con tàu không số là những cảm tử quân. Vượt biển Đông vào Nam là đi vào nơi tử địa, vượt qua vòng vây dày đặc tàu chiến và máy bay địch. Tàu nhỏ chỉ 50 - 100 tấn mà dám vượt tuyến biển ba bốn ngàn hải lý để vận tải vũ khí chi viện cho miền Nam suốt 14 năm trời là chuyện chưa từng có trong lịch sử hàng hải thế giới. Họ là những người anh hùng đích thực. Từ chỗ miền Nam phải đánh giặc bằng hầm chông, súng kíp, súng ngựa trời, nhờ có những chuyến hàng từ tàu không số mà bộ đội chủ lực, dân quân của ta có nhiều loại vũ khí hiện đại như DKZ, B40, B41, đại liên 6,7 li, AK47, thuốc nổ TNT, súng phòng không 12,7 li, cả thủy lôi sừng chạm của Liên Xô mỗi quả nặng đến 1.070kg. Chính những quả thủy lôi này đã đánh chìm tàu vận tải quân sự Baton Rouge Victory của hải quân Mỹ trên sông Lòng Tàu ngày 23-8-1966, mang theo cả trăm thiết giáp M113, 3 máy bay chiến đấu và rất nhiều hàng.
“Tập đoàn đánh cá sông Gianh”
Thực hiện Nghị quyết 15 của Bộ Chính trị, ngày 19-5-1959, “Đoàn quân sự đặc biệt” (Đoàn 559) được thành lập. Đó là khởi nguồn của đường Trường Sơn lịch sử. Tháng 7-1959, Bộ Tổng tư lệnh thành lập Tiểu đoàn vận tải thủy 603, chi viện cho miền Nam bằng đường biển. Tiểu đoàn được mang tên “Tập đoàn đánh cá sông Gianh”. Tiểu đoàn 603 chuyến ra quân đầu tiên vận chuyển 5 tấn vũ khí và thuốc men vào Nam. Nơi đổ hàng là bến Hồ Chuối ở chân đèo Hải Vân. Con tàu ra đi và mất tích cùng 5 thủy thủ do thuyền trưởng Nguyễn Bắc chỉ huy. Sau thất bại này, Quân ủy thành lập đơn vị vận tải thủy mới với mật danh là Đoàn 759 (tức tháng 7-1959). Đoàn 759 đi tìm người gốc Nam bộ và Liên khu 5 có kinh nghiệm đi biển ở các bộ, điều động về. Đồng thời Quân ủy chỉ thị cho Trung ương Cục miền Nam chỉ đạo các tỉnh ven biển miền Trung và Nam bộ chuẩn bị bến bãi và tổ chức tàu thuyền vượt biển ra Bắc nhận vũ khí. Đến tháng 8-1961, đã có 5 chiếc thuyền vượt biển từ miền Nam ra Bắc. Bến Tre 2 thuyền, Cà Mau, Trà Vinh và Bà Rịa 1. Đó là những chiếc thuyền gỗ thô sơ, giả thuyền đánh cá. Việc vượt biển ra Bắc thành công của những con thuyền miền Nam đã tạo ra hướng mới vận chuyển vũ khí bằng đường biển.
Để chuẩn bị thật kỹ phương án mới, các thủy thủ trên thuyền Cà Mau được đưa xuống thuyền trở lại miền Nam để nghiên cứu tình hình hoạt động của địch trên biển, tìm bến bãi để “xuống hàng”. Con tàu trinh sát rời bến Nhật Lệ đêm 10-4-1962. Sau 4 tháng vào Nam trinh sát các bến đỗ Phú Quốc, đảo Thổ Chu, Hòn Chuối, Hòn Ông, Hòn Bà... cuối cùng khẳng định Vàm Lũng (rạch Kiến Vàng, Tân An, Cà Mau) là địa điểm làm bến tốt nhất, rừng đước mênh mông bảo đảm cho việc cất giấu tàu tốt, bốc dỡ hàng kín đáo. Tất cả số thủy thủ miền Nam ra đều bổ sung vào Đoàn 759, tổng cộng có 38 người, trong đó có 20 người vừa từ miền Nam ra. Ông Đoàn Hồng Phước, Tham mưu trưởng Sư đoàn 330, được bổ nhiệm làm đoàn trưởng. Từ đây, ngày 23-10 trở thành dấu mốc lịch sử, là ngày truyền thống của Đoàn 759 - đoàn tàu không số.
Sau hơn một năm chuẩn bị, ta bí mật đóng mới được 4 tàu gỗ hai đáy, trọng tải 30 tấn trở lên. Và 22 giờ ngày 11-10-1962, chiếc tàu gỗ đầu tiên được gọi là “Phương Đông 1” cùng với 13 chiến sĩ do thuyền trưởng Lê Văn Một và chính trị viên Bông Văn Dĩa chỉ huy, chở hơn 30 tấn hàng hóa rời bến Vạ Sét, Đồ Sơn lên đường đi Cà Mau. Sau 9 ngày đêm vượt biển, tàu Phương Đông 1 đã vào đến bến Vàm Lũng, Cà Mau. Ngày 19-10, ông Phạm Thế Bường, Bí thư Khu ủy Khu 9, điện cho Quân ủy Trung ương: “Tàu Lê Văn Một - Bông Văn Dĩa đã về đến nơi an toàn...”.
“Vận tải công khai”
Từ năm 1962-1965, những thủy thủ tàu không số đã thực hiện thành công 90 chuyến chở 4.919,636 tấn vũ khí, quân trang, thuốc men vào chi viện cho chiến trường. Sau vụ tàu 143 của thuyền trưởng Lê Văn Thiêm và chính trị viên Phan Văn Bảng chở 63 tấn vũ khí cập bến Vũng Rô bị địch phát hiện ngày 15-2- 1965, con đường bí mật trên biển Đông đã bị lộ. Từ đó, Hạm đội 7 Mỹ tung 40% lực lượng tàu chiến, cùng máy bay và tàu của hải quân chính quyền Sài Gòn phong tỏa biển Đông rất gắt gao. Tàu không số trên biển
Trước tình thế khó khăn đó, Tư Mau (tức Phan Văn Nhờ) đề nghị Khu ủy Khu 9 báo cáo Quân ủy Trung ương cho chuyển hướng “vận tải công khai”. Quân khu 9 cử ngay Tư Mau ra Bắc để bàn với Quân ủy Trung ương về phương thức vận tải hợp pháp này. Tư Mau là một người mưu trí, gan dạ, nhiều kinh nghiệm đi biển và có những sáng tạo hết sức táo bạo, nguyên Đoàn trưởng Đoàn vận tải 962 của Quân khu 9. Tư Mau nhờ bà Võ Thị Đảnh (cơ sở của ta) đứng tên mua một chiếc thuyền đánh cá, lắp máy Nhật 33 mã lực, với mã số đăng ký là 3308KG. Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 11-3-1971, thuyền do Bí thư Chi bộ Tư Mau lái, Tám Sơn làm thuyền trưởng cùng 3 chiến sĩ rời cảng Rạch Giá ra Bắc. Trưa ngày 30-3, tàu cập bến Đồ Sơn. Sau khi nghe Tư Mau báo cáo, Cục Tác chiến, Bộ Tư lệnh Hải quân trình bày đề án, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói: “Quân ủy đồng ý cho Quân khu 9 sử dụng phương thức vận chuyển “công khai”. Bộ Tư lệnh cung cấp mọi chi phí cho công tác này. Trước mắt gửi cho quân khu 20.000 đô la Mỹ và 2 triệu tiền Sài Gòn; đồng thời cho đóng 10 thuyền ở miền Bắc theo kiểu thuyền đánh cá Nam bộ. Giao cho hải quân lo bến bãi ở miền Bắc, chọn các đồng chí là người miền Nam lớn tuổi, có kinh nghiệm đi biển ở Đoàn 125 tăng cường cho đội thuyền Quân khu 9. Quân ủy không đồng ý chọn đảo Nam Du làm điểm trung chuyển hàng vì ở đó dân qua lại làm ăn nhiều, dễ bị lộ. Giao cho Bộ Tư lệnh Hải quân chọn 5 điểm ở quần đảo phía vịnh Thái Lan và Malaysia, cho tàu chở hàng từ Bắc vào đó, rồi Quân khu 9 đưa thuyền hợp pháp ra chuyển vào bờ”.
Ngày 28-4-1971, thuyền đánh cá do Tư Mau làm chính trị viên cùng 4 thuyền viên rời vịnh Hạ Long mang theo vũ khí vào chiến trường. Đoàn 125 cử tàu V605 do thuyền trưởng Nguyễn Đình Phồn chỉ huy đi hộ tống. Đội thuyền qua đảo Hải Nam, rồi đến Hoàng Sa thì được lệnh quay lại để chuẩn bị thêm. Ngày 27-6 tiếp tục ra biển, lần này không có tàu hộ tống. Ngày 7-7, đội thuyền đã cập cảng Rạch Giá an toàn. Sau đó bằng phương thức địch không ngờ tới này, anh em còn đi nhiều chuyến thành công nữa. Để hoạt động công khai, cuối tháng 7-1972, Tư Mau trong vai một nhà tư sản đến mua căn nhà số 27/20 đường Âu Dương Lân, phường Rạch Ông, quận 8, Sài Gòn. Lấy danh nghĩa là một gia đình chủ tàu đánh cá, Tư Mau xin giấy phép thành lập Công ty Việt Long, chuyên chở hàng thuê đi miền Trung, mua bán thuyền đi biển, máy cũ và cây cảnh. Đoàn 371 đã mua các thuyền SG66, SG67, SG158, SG159 để vận chuyển vũ khí và mua 3 thuyền vận tải VT235, VT254, 2674KG để đi làm kinh tế kết hợp nghi trang che mắt địch. Công ty còn mướn thợ đóng 2 chiếc tàu ở Biên Hòa trọng tải 120 tấn, 500 mã lực có gắn máy lạnh. Công ty có 10 kho cất giấu vũ khí, hàng hóa ở ngay Sài Gòn. Thời gian này Công ty Việt Long (tức Đoàn 371) thường xuyên tổ chức mỗi chuyến 2 thuyền, có lần 3 thuyền ra vịnh Hạ Long nhận vũ khí, mỗi lần từ 15 đến 27 tấn về bến an toàn. Bến giao hàng cũng được điều chỉnh. Ngoài bến Đông Cùn, Đoàn 371 mở thêm Bến Hố, Cà Mau, Trà Vinh. Cơ sở của đoàn mở rộng từ Rạch Giá đến duyên hải Trà Vinh, Vũng Tàu, Sài Gòn và Long Hải (Bà Rịa). Đoàn 125 ở Bắc có nhiệm vụ tiếp đón các đội công tác, sửa chữa tàu thuyền, chuyển giao hàng và hộ tống thuyền của đoàn qua các vùng biển phức tạp. (Còn tiếp)
C.T (tổng hợp)