Cách mạng tháng 8 và Quốc khánh 2-9-1945 đã làm cho chế độ thuộc địa gần 100 năm bị đánh sập, chế độ phong kiến hàng nghìn năm bị xóa bỏ...
Vị thế của Việt Nam từ đó đã có sự chuyển đổi cơ bản, từ chỗ không có tên trên bản đồ thế giới (đúng ra là An Nam nằm trong xứ Đông Dương thuộc Pháp), thành nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày nay là nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Trong 67 năm qua, Việt Nam phải trải qua 30 năm chiến tranh, chia cắt, mất hàng chục năm khắc phục hậu quả chiến tranh và tìm tòi cơ chế, bị bao vây cấm vận, bị hụt hẫng về vốn đầu tư, thị trường do sự đổ vỡ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (cũ) và Đông Âu, rồi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội ở trong nước và tác động của các cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở khu vực, khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới trăm năm mới có... Mặc dù vậy, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu lớn.
Một góc khu đô thị Phú Mỹ Hưng tại TP.HCM. Tăng trưởng GDP của Việt Nam tính đến năm 2011 đã đạt 31 năm liên tục. Về mặt chính trị, đối ngoại, Việt Nam đã trở thành một nước hoàn toàn độc lập, có quyền tự quyết định vận mệnh của mình. Việt Nam đã là thành viên của Liên hiệp quốc, tham gia Hiệp hội Các nước Đông Nam Á, có quan hệ ngoại giao với trên 170 nước, có quan hệ buôn bán với trên 200 nước và vùng lãnh thổ, tham gia hầu hết các tổ chức và định chế quốc tế, đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc,... Vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế ngày càng tăng. Về kinh tế, nhiều chỉ tiêu chủ yếu của năm 2011 gấp nhiều lần trước Cách mạng.
GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái của Việt Nam năm 1988 chỉ đạt 86 USD - là một trong mấy nước thấp nhất thế giới, nhưng đã tăng gần như liên tục qua các năm sau đó và đến năm 2011 đã đạt 1.375 USD, đã ra khỏi nhóm nước thu thập thấp để trở thành nước có thu nhập trung bình (thấp).
Tăng trưởng GDP của Việt Nam tính đến năm 2011 đã đạt 31 năm liên tục, chỉ thua kỷ lục 33 năm hiện do Trung Quốc nắm giữ... Nếu bình quân thời kỳ 1977-1980, tăng trưởng kinh tế chỉ đạt 0,4%/năm, thấp xa so với tốc độ tăng dân số, làm cho thu nhập quốc dân bình quân đầu người bị sụt giảm mạnh, nếu tính bình quân thời kỳ 1977-1985 cũng chỉ tăng 3,7%/năm, cao hơn không bao nhiêu tốc độ tăng dân số, nếu bình quân thời kỳ 1986-1990 chỉ đạt 4,4%/năm, thì bình quân thời kỳ 1991-2011 đạt 7,34%/năm, thuộc loại cao trong khu vực, châu Á và trên thế giới.
Như vậy, quy mô kinh tế năm 2011 gấp khoảng 20,8 lần năm 1955, gấp khoảng 5,5 lần năm 1985 và gấp trên 4,4 lần năm 1990, gấp trên 2,1 lần năm 2000 (bình quân 1 năm thời kỳ 2001-2011 đạt 7,14%).
Cơ cấu kinh tế đó có sự chuyển dịch quan trọng: tỷ trọng trong GDP của nhóm ngành nông, lâm nghiệp - thuỷ sản đã giảm từ 40,2% (1985) xuống còn 22,02% (2011), của nhóm ngành công nghiệp - xây dựng đã tăng từ 27,4% lên gần 40,79%, của nhóm ngành dịch vụ tăng từ 32,4% lên đạt 37,19% trong thời gian tương ứng!
Nông nghiệp có sự biến đổi thần kỳ, đã chuyển từ độc canh lúa, năng suất thấp và thiếu hụt lớn, sang không những đủ dùng trong nước, còn xuất khẩu gạo với khối lượng lớn, đứng thứ hai thế giới, góp phần vào an ninh lương thực quốc tế; xuất khẩu cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, thủy sản với khối lượng lớn đứng thứ hạng cao trên thế giới.
Sản xuất công nghiệp trước Cách mạng còn rất sơ khai. Cả nước chỉ có 200 xí nghiệp, với 90 nghìn công nhân, chủ yếu phục vụ sự vơ vét tài nguyên và bóc lột nhân công rẻ mạt của thực dân. Số sản phẩm chỉ đếm trên đầu ngón tay với sản lượng còn rất ít ỏi. Đến nay, cả nước có gần nửa triệu doanh nghiệp, trên 4,2 triệu cơ sở cá thể, với gần 1,5 triệu lao động... Sản phẩm công nghiệp vừa nhiều gấp bội về số loại, vừa gấp nhiều lần về sản lượng.
Thương mại trước Cách mạng còn rất nhỏ bé phân tán. Ngày nay, việc mua bán ở trong nước đã được tự do hóa, hàng nghìn siêu thị, trung tâm thương mại được hình thành. Số nước và vùng lãnh thổ mà Việt Nam có quan hệ buôn bán nếu năm 1986 mới có 43 thì đến nay đã lên đến trên 200. Kim ngạch xuất khẩu năm 2012 có thể vượt qua mốc 100 tỷ USD. Tỷ lệ kim ngạch xuất, nhập khẩu so với GDP năm 2011 đã đạt xấp xỉ 170%, đứng thứ 5 thế giới.
Vốn FDI tính từ 1988 đến tháng 7-2012 đăng ký đạt trên 236 tỷ USD, thực hiện đạt trên 96,6 tỷ USD. Vốn ODA từ 1993 đến nay cam kết đạt gần 80 tỷ USD, giải ngân đạt trên 35 tỷ USD.
Về mặt xã hội, tổng quát nhất là chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đã đạt được ba sự vượt trội: chỉ số đã tăng lên qua các năm; thứ bậc về HDI tăng lên qua các năm; chỉ số và thứ bậc về tuổi thọ và học vấn cao hơn chỉ số về kinh tế. Nhiều chỉ tiêu về xã hội năm 2011 cũng gấp nhiều lần trước Cách mạng.
Năm 2012 là năm thứ hai của kế hoạch 5 năm 2011-2015 và chiến lược 10 năm 2011-2020. Mục tiêu tổng quát là đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Trong hai năm 2011-2012, một mặt Việt Nam vừa phải kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng hợp lý, mặt khác vừa phải thực hiện ba khâu đột phá chiến lược là hoàn thiện thể chế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và xây dựng kết cấu hạ tầng, thực hiện chuyển đổi mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế. Đây là khó khăn kép và phải có giải pháp kép.
Theo VnEconomy