Luật Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp đã được thông qua với 92,05%
Theo dõi Báo Bình Dương trên

Luật Quản lý và đầu tư vốn Nhà nước tại doanh nghiệp là bước tiến quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng vốn và tăng cường minh bạch, tự chủ và trách nhiệm của doanh nghiệp.

Ngày 14/6, phiên họp toàn thể của Quốc hội với 440/451 đại biểu có mặt đã biểu quyết tán thành (đạt tỷ lệ 92,05%) thông qua Luật Quản lý và đầu tư vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.
Trước khi tiến hành biểu quyết, ông Phan Văn Mãi, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội đã trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật dựa trên ý kiến đóng góp của các vị đại biểu Quốc hội tại phiên thảo luận ngày 13/5 và ý kiến của Chính phủ.
Theo đó, nhiều vấn đề lớn đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp thu, giải trình và chỉnh lý. Trong đó, đối tượng áp dụng sẽ không mở rộng sang doanh nghiệp của tổ chức chính trị-xã hội. Cụ thể, Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải trình vốn điều lệ của các doanh nghiệp thuộc cơ quan Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội không chỉ bao gồm vốn Nhà nước mà còn có nhiều nguồn vốn khác. Do đó, việc đưa nhóm này vào phạm vi điều chỉnh sẽ không đảm bảo tính thống nhất với mục tiêu và đối tượng của Luật. Tuy nhiên, để tạo cơ sở pháp lý, dự thảo Luật đã quy định giao Chính phủ quy định chi tiết hoạt động đầu tư, quản lý vốn của các tổ chức này. Ngoài ra, để đảm bảo thống nhất, Ủy ban đã chỉ đạo rà soát, bổ sung nội dung "đầu tư, hỗ trợ" của Nhà nước đối với Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam (tại Điều 57).


Liên quan đến đề nghị quy định rõ điều kiện, thẩm quyền, trách nhiệm trong huy động, cho vay vốn để doanh nghiệp chủ động, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng việc cho phép doanh nghiệp được cho công ty con (doanh nghiệp nắm trên 50% vốn điều lệ) vay vốn là nhằm thể chế hóa Nghị quyết số 12-NQ/TW, tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp. Điều này cũng giúp các công ty con tiếp cận nguồn vốn hợp lý. Dự thảo Luật giao Chính phủ quy định chi tiết điều kiện bảo lãnh, cho vay nhằm quản lý chặt chẽ, kiểm soát rủi ro. Vì vậy, Ủy ban đề nghị Chính phủ khi xây dựng văn bản hướng dẫn cần quy định rõ điều kiện, mục đích sử dụng vốn vay, đánh giá hiệu quả, biện pháp bảo đảm và cơ chế giám sát.
Trước ý kiến đề nghị không cho phép toàn bộ doanh nghiệp Nhà nước đầu tư bất động sản mà chỉ giới hạn ở doanh nghiệp lớn, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng doanh nghiệp có vốn Nhà nước được thực hiện các hoạt động kinh doanh phù hợp pháp luật và định hướng của Nhà nước. Việc hạn chế này sẽ làm giảm quyền tự chủ kinh doanh, không phù hợp với chủ trương đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước. Do vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội không quy định nội dung này trong dự thảo.
Về chuyển nhượng dự án đầu tư, vốn đầu tư, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp thu ý kiến cần quy định chặt chẽ hơn việc chuyển nhượng dự án đầu tư và đã chỉ đạo rà soát, chỉnh lý và giao Chính phủ quy định chi tiết. Điều này nhằm đảm bảo linh hoạt trong tổ chức thực hiện, xử lý tình huống phát sinh nhưng vẫn giữ yêu cầu công khai, minh bạch.
Đối với việc phân phối lợi nhuận sau thuế, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thống nhất với đề nghị bổ sung quy định xử lý chi phí khảo sát, thăm dò khoáng sản không thành công. Do đặc thù ngành, nếu kết quả thăm dò không đạt kỳ vọng, doanh nghiệp không triển khai dự án, các chi phí này không được ghi nhận là chi phí dự án. Để giải quyết bất cập, Ủy ban đã chỉ đạo chỉnh lý cho phép hạch toán "Chi phí khảo sát, thăm dò khoáng sản cho mục đích đầu tư không đủ điều kiện triển khai dự án theo quy định của Chính phủ."
Để bảo toàn và phát triển vốn, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tiếp thu một phần ý kiến về việc không áp dụng tiêu chí bảo toàn và phát triển vốn đối với một số doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và chính trị xã hội. Theo đó, Ủy ban đã chỉ đạo chuyển nội dung quy định về loại trừ các yếu tố ảnh hưởng tới bảo toàn và phát triển vốn tại dự thảo Luật.
Về đánh giá, xếp loại doanh nghiệp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết các quy định hiện tại đã theo hướng đánh giá hiệu quả tổng thể đồng thời loại trừ các yếu tố (như thực hiện nhiệm vụ chính trị, quốc phòng, an ninh; nhiệm vụ không vì mục tiêu lợi nhuận; thử nghiệm công nghệ mới, mô hình kinh doanh mới và tác động khách quan). Vì vậy, Ủy ban cho rằng quy định này đã cơ bản bao quát, tạo cơ sở pháp lý vững chắc và đã chỉnh lý hợp lý tại các điều liên quan.
Đối với đề nghị bổ sung quy định về SCIC và cơ chế hoạt động, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết SCIC có lĩnh vực đặc thù và Luật số 69 đã giao Chính phủ quy định. Việc quy định cụ thể trong Luật này không phù hợp thẩm quyền Quốc hội và chủ trương "luật chỉ quy định những vấn đề thuộc thẩm quyền Quốc hội". Tuy nhiên, để có cơ sở pháp lý, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo bổ sung quy định giao Chính phủ quy định về hoạt động, cơ chế tài chính của doanh nghiệp có chức năng kinh doanh vốn Nhà nước./.
Theo TTXVN