Lực lượng vũ trang tỉnh: Những mốc son chói lọi - Bài 1

Cập nhật: 17-11-2015 | 08:18:06

Bài 1: Chi đội 1 - Giải phóng quân Nam bộ

 

 Ngày 25-11-1945, Chi đội 1 Giải phóng quân chính thức được thành lập, đánh dấu sự hình thành của lực lượng vũ trang (LLVT) tỉnh, lực lượng nòng cốt trong phong trào toàn dân đánh giặc, giải phóng quê hương, bảo vệ Tổ quốc. Trải qua 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, LLVT tỉnh luôn hoàn thành nhiệm vụ được giao, xứng đáng với truyền thống “Trung dũng, kiên cường - Chủ động, sáng tạo - Đoàn kết, quyết thắng”.

 Đền An Quới - nơi ra đời Chi đội 1 - Giải phóng quân Nam bộ. Ảnh: Q.CHIẾN

Chi đội 1 - Giải phóng quân Nam bộ của tỉnh Thủ Dầu Một là đơn vị vũ trang tập trung được thành lập sớm nhất ở Nam bộ. Chi đội 1 ra đời không những đáp ứng nhiệm vụ chiến đấu tại địa phương, mà còn thúc đẩy, hỗ trợ cho lực lượng dân quân, du kích ngày càng phát triển, tạo thành sức mạnh tổng hợp của lực lượng ba thứ quân, đánh địch trên khắp địa bàn tỉnh.

Vùng quê An Sơn vốn hiền hòa, giống như một cù lao nhỏ, xanh thẫm một màu của vườn cây ăn trái và được bao bọc bởi sông rạch cùng nhiều kênh mương len lỏi khắp ruộng vườn thôn ấp. Ngày nay, trải qua bao thăng trầm, tốc độ đô thị hóa nhanh chóng, đường sá được đầu tư thông thoáng, đời sống người dân nâng lên rõ rệt… nhưng An Sơn vẫn hiền hòa, yên ả. Hiền hòa, yên ả là vậy nhưng vùng đất này lại rất giàu truyền thống cách mạng, người dân luôn hừng hực khí thế, giàu ý chí chống giặc ngoại xâm. Chính tại mảnh đất này, ngày 25-11-1945, Chi đội 1 - Giải phóng quân Nam bộ chính thức được thành lập.

Ông Nguyễn Văn Hữu, nguyên Tỉnh đội trưởng Tỉnh đội Thủ Dầu Một cho biết, bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ, để đáp ứng những yêu cầu và nhiệm vụ mới, LLVT của tỉnh cần được tổ chức bài bản hơn và có sự chỉ huy thống nhất để tạo thành sức mạnh to lớn hơn. Trên cơ sở đó, ngày 25-10-1945, Hội nghị Xứ ủy Nam bộ đã triệu tập cuộc họp mở rộng tại Thiên Hộ, huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho, với nhiệm vụ quan trọng là lãnh đạo đẩy mạnh công cuộc kháng chiến và củng cố xây dựng LLVT cách mạng ở Nam bộ, đặt LLVT dưới sự lãnh đạo của Đảng.

 Giải phóng quân Nam bộ - đơn vị vũ trang đầu tiên của tỉnh Thủ Dầu Một năm 1947. Ảnh: TL

Đầu tháng 11-1945, tại một cuộc họp ở sở cao su nhỏ của Hội đồng Cần thuộc xã Tân Định (phường Tân Định, TX.Bến Cát ngày nay), Nguyễn Bình, đặc phái viên quân sự Trung ương được cử vào Nam bộ và Huỳnh Kim Trương, Ủy viên quân sự tỉnh Thủ Dầu Một đã bàn bạc và thống nhất chủ trương thành lập ngay một đơn vị vũ trang tập trung trên cơ sở thống nhất các LLVT trong tỉnh, lấy tên là Chi đội 1. Ngày 20-11-1945, Hội nghị quân sự tại An Phú xã (Hóc Môn) đã công nhận Chi đội giải phóng quân của tỉnh Thủ Dầu Một với phiên hiệu “Chi đội 1 - Giải phóng quân Nam bộ”.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị quân sự tại An Phú xã, ngày 25-11-1945, Chi đội 1 - Giải phóng quân Nam bộ chính thức được thành lập tại đền An Quới, xã An Sơn, quận Lái Thiêu (nay là TX.Thuận An). Quân số lúc mới thành lập là 800 cán bộ, chiến sĩ. Vũ khí gồm 80 súng trường, 10 súng phóng lựu, 10 súng máy và nhiều đạn dược khác. Chi đội 1 được biên chế thành 3 đại đội, trong đó Đại đội 1 phụ trách vùng Lái Thiêu; Đại đội 2 vùng Châu Thành và TX.Thủ Dầu Một; Đại đội 3 phụ trách Bến Cát và Hớn Quản. Ngoài các đại đội trực thuộc, Chi đội 1 còn có các bộ phận chuyên môn như: Văn phòng chi đội và Khối Hậu cần; Ban Quân nhu; Ban Quân y; Ban Tài chính; Ban Quân giới; Ban Giao thông liên lạc.

Theo ông Nguyễn Văn Hữu, Chi đội 1 - Giải phóng quân Nam bộ của tỉnh Thủ Dầu Một là một tổ chức vũ trang cách mạng đầu tiên ở miền Đông Nam bộ do Đảng tổ chức xây dựng sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, là đơn vị vũ trang tập trung được thành lập sớm nhất ở Nam bộ. Chi đội 1 ra đời có ý nghĩa to lớn, đánh dấu bước trưởng thành quan trọng của các đơn vị vũ trang được tổ chức chặt chẽ, thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chi đội 1 không những đáp ứng nhiệm vụ chiến đấu tại địa phương mà còn thúc đẩy, hỗ trợ cho lực lượng dân quân, du kích ngày càng phát triển, tạo thành sức mạnh tổng hợp của lực lượng ba thứ quân, đánh địch trên khắp địa bàn tỉnh. Bản thân Chi đội 1 là hình ảnh thu nhỏ của khối đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, đủ cả Bắc - Trung - Nam, các thành phần từ công nhân, nông dân, học sinh, sinh viên, viên chức, người Hoa…

Đến cuối năm 1947, Chi đội 1 đã trở thành một chi đội mạnh về cả chính trị - tư tưởng, lực lượng, vũ khí, cũng như kinh nghiệm và khả năng chiến đấu. Quân số Chi đội 1 đã lên tới 2.000 người, trong đó có 142 đảng viên và 1.350 súng trường, 28 tiểu liên, 18 trung liên, 10 đại liên.

Những vị cao niên đã sinh ra và lớn lên trên mảnh đất An Sơn như ông Nguyễn Văn Tư, Hồ Văn Mân, Đinh Văn Bê đều cho rằng An Sơn chính là hậu phương trực tiếp của LLVT tỉnh bởi là địa bàn mang tính chiến lược vì tiếp giáp với Sài Gòn và sát nách với mặt trận cầu Bến Phân.

An Sơn chính là căn cứ kháng chiến đầu tiên của các tỉnh và là một trong những căn cứ đứng chân của lực lượng kháng chiến miền Đông Nam bộ trong những ngày đầu Nam bộ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Đặc biệt, sau Cách mạng Tháng Tám, hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân An Sơn hăng hái sản xuất, trồng thêm nhiều hoa màu cứu đói, giúp đỡ các gia đình ổn định cuộc sống, tham gia chống giặc dốt. Các mẹ, các chị động viên con em vào LLVT. Hàng trăm gia đình tự nguyện mua công trái đóng góp quỹ nuôi quân. Lực lượng tự vệ chiến đấu quân (cả trung đội nam và trung đội nữ) phân chia nhau canh gác bảo vệ xóm ấp, nhất là trên đường từ cầu Móng vào. Không khí chuẩn bị kháng chiến của nhân dân An Sơn rất nhộn nhịp, khẩn trương ngay từ khi quân Pháp có những hành động khiêu khích chính quyền cách mạng ta ở Sài Gòn.

Ông Hồ Văn Mân, một nhân chứng lịch sử, đại diện cho một gia đình ở An Sơn nuôi quân trong giai đoạn này cho biết, khi ấy ông còn nhỏ, chỉ khoảng 7 tuổi nhưng ông đã biết được nhiều thứ. Ở An Sơn, nổi tiếng nhất là ấp An Quới, đi đến đâu cũng thấy hừng hực khí thế chuẩn bị kháng chiến. An Sơn là nơi trú quân, luyện quân của các đơn vị trước khi ra mặt trận hay sau mỗi đợt chiến đấu rút ra để tạm củng cố nên ở ấp An Quới cứ 4 gia đình có 1 gia đình nuôi bộ đội. Đặc biệt, cả An Sơn, nhà nhà làm bánh ổ gửi về tỉnh để đưa ra mặt trận phục vụ bộ đội chiến đấu. Hàng ngày, chủ các lò đường cùng nhân dân đóng góp mật, đường giao cho phụ nữ phân chia đến tận các gia đình làm bánh ổ. Các chảo nấu đường được dùng để nấu cơm nuôi bộ đội. Tại các cửa ngõ mỗi nhà đều để sẵn nhiều vắt cơm, gói muối tiêu, khạp nước, bộ đội hay nhân viên kháng chiến đi ngang qua cứ lấy dùng mà không phải hỏi chủ nhà. Hầu hết thương binh từ mặt trận cầu Bến Phân chuyển qua sông Sài Gòn đưa về An Sơn chăm sóc. Mọi công tác nuôi quân do nhân dân đùm bọc, nuôi dưỡng. Vì vậy, anh em thương binh thường gọi nơi đây là “Chiến khu An Sơn”. Và những người chiến sĩ, dù trong LLVT của tỉnh hay bất cứ đơn vị nào của lực lượng kháng chiến Nam bộ từ mặt trận về “chiến khu”, cũng được nhân dân hết lòng chăm sóc, yêu thương.

Bài 2: Trung đoàn 301 - Bước trưởng thành của LLVT tỉnh

 THU THẢO

 

Chia sẻ bài viết

LƯU Ý: BDO sẽ biên tập ý kiến của bạn đọc trước khi xuất bản. BDO hoan nghênh những ý kiến khách quan, có tính xây dựng và có quyền không sử dụng những ý kiến cực đoan không phù hợp. Vui lòng gõ tiếng việt có dấu, cám ơn sự đóng góp của bạn đọc.

Gửi file đính kèm không quá 10MB Đính kèm File
intNumViewTotal=1289
Quay lên trên