(BDO) Ngày 17-10-1989, Ban Bí thư Trung ương Ðảng khóa VI ra Chỉ thị số 381-CT/TW lấy Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22-12 là Ngày hội Quốc phòng toàn dân (QPTD). Kể từ đó, ngày 22-12 hàng năm trở thành ngày hội lớn, tập hợp, nhân lên sức mạnh toàn dân tộc, phát huy truyền thống đề cao vai trò nhân dân, dựa vào dân trong dựng và giữ nước của ông cha ta.
Truyền thống dựng nước và giữ nước của ông cha ta là chiến lược quốc phòng toàn dân
Trong suốt chiều dài lịch sử, dân tộc ta luôn phải đối mặt với nhiều cuộc xâm lăng từ giặc ngoại bang rất mạnh và hung bạo. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc được cha ông ta luôn coi là đường lối cơ bản, được bổ sung, phát triển và trở thành nền tảng cho chiến lược chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Vì thế, ở bất kỳ thời kỳ nào, dù kẻ thù mạnh, hung bạo đến đâu, nếu động viên, quy tụ được sức mạnh toàn dân thì chúng ta đều giành thắng lợi, giữ vững được độc lập, tự do, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ.
Đại tá Nguyễn Hoàng Minh, Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh trao giấy khen cho các cá nhân xuất sắc trong phong trào thi đua quyết thắng địa phương năm 2023. Ảnh: Thu Thảo
Những bài học về phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong dựng và giữ nước của ông cha ta, đó là: Dựa vào dân để tập hợp lực lượng, xây dựng quân đội trong nhân dân, phát huy sức mạnh toàn dân tộc để chống ngoại xâm. Tư tưởng dựa vào dân để tập hợp lực lượng, tạo nên sức mạnh giữ nước, thực hiện chiến lược “toàn dân là lính”, “cả nước chống giặc” là một trong những nội hàm cơ bản của triết lý lấy dân làm gốc trong truyền thống dựng và giữ nước của ông cha ta. Bởi lẽ, trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, ta thường phải “lấy nhỏ thắng lớn”, “lấy ít địch nhiều”.
Lịch sử đã chứng minh, ông cha ta đã sớm nhận thức rằng, không thể chỉ dựa vào lực lượng quân đội thường trực mà phải huy động được sức mạnh của toàn dân tộc để đánh giặc. Nhờ tin vào dân, biết dựa vào sức mạnh của dân mà nhà Lý, nhà Trần đã đánh thắng những đội quân xâm lược hùng mạnh nhất thế giới lúc đó. Tư tưởng “mỗi người dân là một chiến sĩ”, “trên dưới đồng lòng, anh em hòa mục, cả nước góp sức”... của các lãnh tụ khởi nghĩa và tướng lĩnh chỉ huy thời kỳ này đã giúp tập hợp lực lượng và tạo nên động lực to lớn, có ý nghĩa quyết định để chiến thắng các đạo quân xâm lược hùng mạnh.
Trong Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, ý thức về quyền lợi và phẩm giá con người gắn với lợi ích của dân tộc được đề cao, nhằm khơi dậy, phát huy sức mạnh chiến đấu của nhân dân. Nguyễn Trãi đã chủ trương dựa vào dân để xây dựng lực lượng và thực hiện cuộc khởi nghĩa toàn dân, với phương châm “dựng gậy làm cờ, dân chúng bốn phương tụ họp”. Phong trào Tây Sơn, nhờ giương cao ngọn cờ chính nghĩa, với quan điểm “toàn dân là lính” nên ý chí, nguyện vọng, sức mạnh của nhân dân đã được tụ hợp thành một khối. Nhờ đó, từ cuộc khởi nghĩa nông dân ở một địa phương đã nhanh chóng phát triển thành cuộc khởi nghĩa cả nước, lật đổ chế độ thống trị phản động, đánh thắng quân xâm lược Thanh, bảo vệ toàn vẹn đất nước.
Bên cạnh đó là dựa vào dân để bảo vệ đất nước, vừa sản xuất vừa sẵn sàng chiến đấu được thực hiện trong cả thời bình lẫn thời chiến. Tư tưởng này được thể hiện khá rõ trong chính sách xây dựng, chuẩn bị lực lượng của các triều đại phong kiến Việt Nam, nhất là từ thời Lý - Trần. Những chính sách như “ngụ binh ư nông”, “động vi binh, tĩnh vi dân”... là cách thức xây dựng lực lượng bảo vệ đất nước rất thành công của người Việt, vừa bảo đảm yêu cầu quốc phòng, vừa duy trì được lực lượng lao động cần thiết cho phát triển, giảm nhẹ chi phí nuôi quân đội.
Ngay từ thời nhà Lý, nghĩa vụ binh dịch, tuyển lính theo hộ khẩu khá chặt chẽ. Theo đó, dân đinh các làng xã ở độ tuổi quy định đều phải đăng ký vào sổ quân. Khi có chiến tranh, chính quyền căn cứ vào sổ quân để tuyển lính và khi chiến tranh kết thúc, quân lính lại chia ra từng nhóm, luân phiên nhau về làm ruộng. Chính sách này được nhà Trần vận dụng rất thành công và bổ sung, phát triển thêm. Bằng nghệ thuật xây dựng quân đội trong dân, “gửi binh ở nông”, kết hợp giữa nông và binh trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu mà các triều đại phong kiến có thể huy động được số quân rất lớn trong một thời gian ngắn để tổ chức chống giặc.
Có thể nói, tư tưởng dựa vào dân để chiến đấu, gắn việc binh với việc nông, làng xã vừa là pháo đài chống giặc, vừa phát triển sản xuất, bảo đảm “thực túc binh cường” là đỉnh cao về quan điểm và nghệ thuật xây dựng nền QPTD của ông cha ta.
Cùng với đó, trong thời bình phải quan tâm đến đời sống, ổn định lòng dân, coi trọng ý dân để tạo dựng, củng cố tiềm lực quân sự, phòng lúc đất nước lâm nguy. Quán triệt chiến lược đó, khởi đầu các triều đại, khi còn đại diện cho lợi ích và xu hướng phát triển của dân tộc, các chính sách của triều đình đều quan tâm đến đời sống của dân, coi trọng lòng dân, ý dân ở những mức độ nhất định. Nhiều vị vua xuất phát từ “lòng dân”, “ý dân” để định ra chủ trương chính trị cho mình. Nhân dân được đặt vào vị trí trung tâm trong việc chính sự của đất nước.
Lực lượng dân quân thường trực huyện Dầu Tiếng diễn tập bắn đạn thật do Quân khu 7 tổ chức. Ảnh: Thu Thảo
Lý Công Uẩn khẳng định việc dời đô đến Thăng Long để mưu toan nghiệp lớn là do “trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân”, đồng thời khẳng định nghiệp làm vương của mình là “làm cho dân được giàu của, nhiều người”.
Ngay sau khi lên ngôi, Lý Thái Tổ đã thực hiện việc xá thuế cho dân, không phải để cứu trợ trong hoàn cảnh khó khăn, mà thể hiện sự cảm thông với cuộc sống vất vả của họ. Lý Thường Kiệt thì yêu cầu phải khoan hòa giúp đỡ trăm họ, phải yêu mến mọi người, phải quan tâm đến sự no ấm của dân, phải nuôi dưỡng người già nơi thôn dã: “Làm việc cốt tránh phiền dân. Sai khiến dân, cốt khuyên nhủ dân vui theo... Đem bụng khoan thứ cứu dân, lấy lòng nhân ái yêu dân... Lấy sự no đủ làm nguyện vọng của dân, coi việc cày cấy làm gốc của nước…”.
Dưới thời Trần, vua Trần Thái Tông từng nói: “Trẫm muốn ra ngoài để được nghe tiếng nói của dân và xem xét lòng dân, cho biết tình trạng khó khăn của dân”. Trần Quốc Tuấn căn dặn “khoan thư sức dân” là “thượng sách” để giữ nước. Sau mỗi cuộc kháng chiến giành độc lập thắng lợi, các triều đại thường hạn chế việc huy động sức dân vào việc phu phen, lao dịch, mà tập trung khôi phục kinh tế, tăng cường tiềm lực quốc phòng, tạo điều kiện để huy động sức người, sức của khi đất nước lâm nguy.
Phát huy các giá trị truyền thống trong tổ chức ngày hội quốc phòng toàn dân
Trong thời hiện đại, kể từ khi có Đảng lãnh đạo, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã tiến hành các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, giành thắng lợi vĩ đại, giữ vững độc lập dân tộc, vững bước đi lên CNXH.
Ngay sau Cách mạng Tháng Tám 1945, chính quyền cách mạng non trẻ đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, cùng một lúc phải đương đầu với nhiều đội quân xâm lược mạnh hơn ta gấp nhiều lần. Trong bối cảnh đó, tư tưởng khởi nghĩa vũ trang toàn dân đã được Bác Hồ phát triển thành tư tưởng chiến tranh nhân dân (CTND), với phương châm: “Toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh”. Tư tưởng Hồ Chí Minh về CTND là sự vận dụng tổng hợp truyền thống đánh giặc giữ nước của cha ông và quy luật chiến tranh cách mạng bảo vệ Tổ quốc; vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Dân quân thường trực phường Phú Chánh, TP.Tân Uyên xây dựng cảnh quan xanh - sạch - đẹp. Ảnh: Thu Thảo
Hiện nay, tình hình an ninh chính trị thế giới diễn biến phức tạp, khó lường; tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố, chiến tranh cục bộ, chiến tranh trên mạng… tiếp tục diễn biến căng thẳng ở nhiều nơi. Khu vực Ðông - Nam Á đang là trọng điểm chiến lược cạnh tranh giữa các nước lớn, có nhiều nguy cơ bất ổn; việc tranh chấp chủ quyền biển, đảo trên biển Ðông vẫn gay go, phức tạp.
Với nước ta, các thế lực thù địch tăng cường “diễn biến hòa bình”, đòi “phi chính trị hóa” quân đội, gây chia rẽ các lực lượng vũ trang hòng phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Trước tình hình đó, kế thừa những kinh nghiệm, truyền thống của ông cha, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã hình thành chiến lược xây dựng nền QPTD, CTND bảo vệ Tổ quốc. Mà việc tổ chức ngày hội QPTD là một điển hình sáng tạo.
Để triển khai tốt ngày hội QPTD, chúng ta cần thực hiện tốt các nhiệm vụ: Giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của tổ chức Đảng, cấp ủy các cấp với nhiệm vụ xây dựng, củng cố quốc phòng, bảo đảm cho ngày hội QPTD thật sự là nơi rèn luyện, biểu dương sức mạnh toàn dân tộc tham gia bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành và mỗi người dân với sự nghiệp xây dựng nền QPTD, luôn luôn sẵn sàng giữ gìn đất nước trong mọi tình huống.
Đổi mới về nội dung, hình thức, nâng cao chất lượng tổ chức ngày hội QPTD, kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam phù hợp từng đối tượng, địa bàn, góp phần thúc đẩy phong trào hành động cách mạng của toàn dân trên cả nước. Thường xuyên tổng kết thực tiễn, nghiên cứu bổ sung, phát triển lý luận về xây dựng nền QPTD và hoạt động tuyên truyền, thu hút nhân dân tham gia ngày hội QPTD, để rút ra những bài học cho các thời kỳ tiếp theo.
Phó Giáo sư - Tiến sĩ Bùi Trung Hưng