Nhạc sĩ Lư Nhất Vũ – Người anh đồng hương thân thiết của tôi
Theo dõi Báo Bình Dương trên

Nhạc sĩ Lư Nhất Vũ và tôi là đồng hương, cùng là hai người con của quê hương đất Thủ. Thuở còn đi học, anh học chung trường Trung học tư thục Nguyễn Trãi với chị tôi, mặc dù lớn hơn chị tôi ba tuổi. Anh thuộc thế hệ đàn anh, dù tuổi tác có chênh lệch nhưng giữa anh và tôi lại có những đồng cảm thú vị.

Năm 1955, khi nhạc sĩ Lư Nhất Vũ từ giã mái trường, từ giã bạn bè, từ giã tuổi học trò để lên đường vượt tuyến ra miền Bắc đi theo kháng chiến thì tôi chỉ là một cậu bé tóc còn để chỏm. Sau bao nhiêu năm lao động, chiến đấu và học tập ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa, anh tốt nghiệp Khoa Sáng tác trường Âm nhạc Việt Nam (1962) và chính thức trở thành nhạc sĩ.
Ngày ấy, dù đang còn công tác ở Hà Nội, nhưng cuộc tổng tiến công và nổi dậy vào Tết Mậu Thân của lực lượng ta đánh thẳng vào trung tâm thành phố Sài Gòn, khiến cho miền Bắc, hậu phương lớn tràn ngập niềm vui, thôi thúc nhạc sĩ viết nên ca khúc Cô gái Sài Gòn đi tải đạn, một ca khúc đi cùng năm tháng, ghi dấu ấn sâu đậm trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, làm nên tên tuổi nhạc sĩ Lư Nhất Vũ.
Năm 1970, được tổ chức phân công, nhạc sĩ Lư Nhất Vũ đã vượt Trường Sơn trở lại chiến trường miền Nam để công tác và chiến đấu. Đây là một thời kỳ vô cùng khó khăn và gian khổ so với những ngày sống giữa lòng thủ đô Hà Nội. Được trực tiếp chiến đấu tại chiến trường miền Nam, tinh thần nhạc sĩ như được trui luyện hơn trong khói bom, lửa đạn.
Chính trong thời gian này, nhạc sĩ cùng nhà thơ Lê Giang đã cho ra đời nhiều ca khúc có giá trị, kịp thời cổ vũ cho quân dân miền Nam và cả nước kiên cường đấu tranh cho đến ngày thắng lợi, cụ thể là: Người con gái Rạch Gầm (1971), Tiếng hát giữ buôn làng (1972), Nhớ anh Giải phóng quân (1972), Ngày mai trên mảnh đất này (1973), Bài ca anh Giải phóng quân (1974)…

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, nhạc sĩ đã trải qua nhiều vị trí công tác khác nhau và nghỉ hưu năm 1997. Sau ba mươi tám năm ở lầu sáu một chung cư tại thành phố Hồ Chí Minh, ba năm chuyển ra ở Xóm Chài - thành phố Phan Thiết, đầu năm 2015, anh và nhà thơ Lê Giang quyết định trở về quê hương đất Thủ để sống những ngày tháng tuổi già êm đềm của mình. Từ đó, anh chị Năm (Lư Nhất Vũ – Lê Giang) trở thành “hàng xóm” của tôi.
Nhà anh và nhà tôi chung một phường, chỉ khác nhau khu phố. Từ đây, tôi trở thành “người bạn vong niên”, “người bạn láng giềng” và cũng là người đồng nghiệp thân thiết của anh chị trên quê hương đất Thủ. Mỗi tuần, ít nhất một lần, tôi đều ghé qua nhà anh để hai anh em cùng uống trà, nói chuyện đời, chuyện nhạc dưới giàn hoa giấy tím ngắt trước nhà anh.

Được sống gần, tiếp xúc nhiều với anh chị, tôi cảm nhận ở anh chị một trái tim nhân hậu, một tấm lòng bao dung, hiếu khách và đặc biệt luôn mở lòng với mọi người, mọi vật. Chính vì vậy nên anh chị có rất nhiều người thương yêu, quý mến. Ai đã từng một lần đến nhà và tiếp xúc với anh chị cũng có chung cảm giác như được về chính nhà mình, như được gặp lại người thân thiết trong một gia đình. Nhiều bạn bè của anh chị, dù ở xa nhưng khi có dịp, họ đều dành thời gian ghé thăm ngôi nhà nhỏ có cội hoa giấy để tận hưởng cảm giác thân thuộc, tràn ngập tình yêu thương ấy.
Mỗi lần được gặp gỡ, trò chuyện cùng anh, tôi thích được nghe anh kể về thời niên thiếu của anh trên quê hương đất Thủ. Vốn sinh ra và lớn lên ở Thủ Dầu Một, nên những câu chuyện về thời niên thiếu của anh lại bàng bạc hiện về trong ký ức tuổi thơ tôi.
Anh kể rằng thuở nhỏ, anh rất thích được bơi lội, lặn hụp trên dòng sông chợ Thủ (sông Sài Gòn). Lũ con nít trạc tuổi anh ngày nào cũng chờ con nước ròng để lội qua Củ Chi mò tôm, bắt cá hoặc hái rau móp mang về làm dưa muối, một món ăn dân dã quen thuộc của người dân quê ở đây. Tiếng sóng vỗ và tiếng hát hò trên sông của những người chèo ghe chở mía cùng tiếng vi vu của hàng dương liễu bên bờ sông Bạch Đằng mãi vang vọng trong tiềm thức tuổi thơ của anh. Tiếng vó ngựa lóc cóc của những chiếc xe thổ mộ ngược xuôi trên đường như còn gõ nhịp đều đều trong ký ức của anh về một thời niên thiếu. Những buổi chiều gió mưa vần vũ làm những cánh hoa dầu xoay tít bay bay như xoáy vào anh những kỷ niệm chiều quê mãi cho đến lúc trưởng thành.
Cuộc đời của mỗi người, có lẽ đẹp nhất là ở lứa tuổi học trò. Ở tuổi ngoài tám mươi, nhưng nhạc sĩ Lư Nhất Vũ vẫn nhớ như in những kỷ niệm khó phai của những ngày mới cắp sách đến trường. Anh vào học lớp đồng ấu tại nhà thầy giáo Dương Ngọc Thọ ở xóm Giếng Máy (nay là đường Phạm Ngũ Lão, phường Hiệp Thành, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương). Sau này, thầy Thọ mở trường tiểu học Minh Tâm trên đường Lò Chén, đối diện với trường tư thục Nguyễn Trãi lúc bấy giờ. Mấy năm sau, thầy Thọ thoát ly tham gia kháng chiến ở miền Đông Nam Bộ.
Nhạc sĩ Lư Nhất Vũ và con trai của thầy Thọ (tên là Dương Ngọc Ấn) là bạn học, sau này hai người cùng vượt tuyến ra Bắc. Anh Ấn là kỹ sư đường sắt, là thành viên trong đội tự vệ trên những chuyến tàu từ Hà Nội vào khu IV cũ. Anh Dương Ngọc Ấn đã hy sinh vào ngày 2-9-1967 tại Quảng Bình.
Theo anh kể lại, người thầy giáo để lại ấn tượng sâu sắc thời tuổi thơ anh là thầy Pháp. Những năm 1940, ai đã từng học trường tiểu học ở Thủ Dầu Một đều “khiếp đảm” mỗi lần nhớ tới thầy Pháp (học trò thường gọi lén là Ông Già Chuồn). Thầy Pháp luôn dạy dỗ và rèn luyện học trò theo những luật lệ rất khắt khe. Hầu như các học trò đều sợ cây thước bảng của thầy. Ngán nhất là môn viết dictée (viết chính tả bằng tiếng Pháp) do thầy giảng dạy. Thầy mà “chiếu tướng” đứa nào (gọi lên bảng viết làm mẫu) thì coi như “hy sanh” tới nơi. Tấm bảng được quay ngược vào bên trong để không cho cả lớp “cọp dê”. Mỗi câu văn thầy đọc ba lần, được vài câu thì thầy gõ cây thước xuống bàn kêu cái “cộp”. Tất cả học trò phải để viết xuống, ngồi thẳng người, không được hỏi han, không được liếc qua liếc lại. Trò nào mà số nhiều thiếu chữ “s” hoặc giống cái thiếu chữ “e” thì coi như là “nạn nhân” của cây thước bảng.

Năm 1952, anh Lư Nhất Vũ được vào học tại trường Trung học tư thục Nguyễn Trãi, lúc này thầy Pháp đã làm hiệu trưởng. Những thầy giáo lúc bấy giờ là thầy Sanh (con trai của thầy Pháp), thầy Phổ, thầy Châu, thầy Hoàng và hai người thầy có “máu nghệ sĩ” là thầy Lê Thương và thầy Phạm Duy Nhượng (anh trai của nhạc sĩ Phạm Duy). Thầy Lê Thương mỗi tuần đi xe location từ Sài Gòn lên Thủ Dầu Một dạy môn Văn và Version (dịch từ tiếng Việt ra tiếng Pháp và ngược lại những bài văn nổi tiếng) còn thầy Phạm Duy Nhượng dạy Pháp văn và Toán. Gia đình thầy Nhượng nghỉ trọ tại lầu 1 của nhà hàng Nam Bắc Hiệp, bên cạnh bến xe và tháp đồng hồ chợ Thủ. Thỉnh thoảng, thầy kể cho đám học trò nghe về ký ức những tháng năm kháng chiến khi còn ở miền Bắc. Khi nào cao hứng, thầy vừa hát, vừa đệm đàn guitar bài Nhạc đường xa do chính thầy sáng tác. Anh Vũ được thầy Phạm Duy Nhượng cho mượn cuốn Lý thuyết về nhạc lý cơ bản bằng tiếng Pháp, đây là lần đầu tiên anh Vũ được tiếp xúc với những kiến thức cơ bản về âm nhạc, khơi mào cho năng khiếu âm nhạc tiềm ẩn ở người học trò, sau này là nhạc sĩ Lư Nhất Vũ.
Sau ngày thống nhất đất nước, nhạc sĩ Lư Nhất Vũ cùng nhà thơ Lê Giang như “những cánh chim không mỏi”, tiếp tục miệt mài đi tìm những “bài học” từ kho tàng âm nhạc dân gian Nam Bộ do những “người thầy” đi “chân đất” truyền đạt lại. Họ là những người “dân quê” tay lấm chân bùn, quanh năm đi làm thuê, cấy mướn hoặc chèo ghe bán dạo trên sông, lên doi, xuống vịnh làm kiếp thương hồ. Nhạc sĩ Lư Nhất Vũ và người bạn đời – nhà thơ Lê Giang đã làm đúng theo lời dạy của Bác Hồ: “Học ở trường, học trong sách vở, học lẫn nhau và học ở nhân dân”, âm thầm, lặng lẽ “Đi tìm kho báu vô hình”.*

Phong cách âm nhạc của dân tộc Việt chính là chất liệu dân ca. Gia tài quý báu này đã được các thế hệ tiên phong sáng tạo, chắt lọc, lưu truyền cả hàng ngàn năm. Bao nhiêu thế hệ người Việt Nam đã nuôi dưỡng tâm hồn con cháu mình bằng chính những làn điệu dân ca đã được tinh lọc đó. Các nhạc sĩ tài ba trên đất nước ta cũng đã sử dụng và bồi đắp cho nguồn tài nguyên quý báu này ngày thêm phong phú. Có thể vì vậy mà trong hầu hết các tác phẩm của nhạc sĩ Lư Nhất Vũ đều chuyên chở chất liệu dân ca từ vùng cao tới đồng bằng, từ miền núi tới miền quê sông nước. Có thể thấy chất liệu dân ca cũng đã góp phần tạo nên phong cách riêng cho âm nhạc của anh.
Trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu, nhạc phương Tây, nhạc Hàn, rapper, hip hop… đang ngày càng lấn át âm nhạc dân tộc, liệu có mấy người còn tâm huyết để níu kéo, giữ gìn bản sắc âm nhạc dân tộc như anh? Tôi còn nhớ mãi có một lần ngồi nói chuyện với anh về trào lưu nhạc trẻ và âm nhạc dân tộc hiện nay, mặt anh buồn buồn nhìn về phía xa xăm và nhắc lại với tôi một câu ngạn ngữ của dân tộc Khmer : “Đừng thấy trời nổi cơn giông mà đổ nước trong chum đi !”. Chum nước ấy, rồi anh sẽ giao lại cho ai ?!
*Tên một tựa sách của Lư Nhất Vũ – Lê Giang
VÕ ĐÔNG ĐIỀN