Để dành được đại thắng mùa xuân năm 1975, dân tộc Việt Nam đã đổ biết bao xương máu. 38 năm qua, nhiều chiến công của quân và dân ta đã được tôn vinh, nhưng còn đó biết bao chiến công vang dội nhưng lại thầm lặng, ít người biết tới.
Vietnam+ xin giới thiệu tới độc giả chùm bài viết “Chuyện ít biết về Bộ đội Đặc công Việt Nam” với mong muốn đóng góp cái nhìn chính xác hơn về những chiến sĩ đặc công với nhiều trận đánh oanh liệt, góp phần vào chiến thắng Mỹ-Ngụy của toàn dân tộc.
Bài 1: Những trận đánh làm nên lịch sử của đặc công Việt Nam
Được phát triển từ nghệ thuật đánh giặc của cha ông, song đến kháng chiến chống Mỹ, nghệ thuật đánh giặc của đặc công Việt Nam được phát triển tới một tầm cao mới. Những ngón đòn hiểm hóc của những chiến sĩ “đầu trần, chân đất” đã làm cho Mỹ-Ngụy kinh hồn, bạt vía.
Năm người phá cả kho bom
Những ngày cuối tháng Tư lịch sử, ngôi nhà nhỏ nằm ở thành phố Bắc Ninh rôm rả bất chợt khi tốp khách lạ tìm đến hỏi về đại thắng mùa xuân năm 1975. Tiếp khách bằng nụ cười đầm ấm và cái bắt tay chắc nịch của người lính từng vào sinh ra tử nơi chiến trường bom đạn, Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân-Đại tá Đỗ Văn Ninh (nguyên Phó tư lệnh, Tham mưu trưởng Binh chủng Đặc công) bảo rằng: Đặc công luôn có những cách đánh độc đáo để giành chiến thắng đặc biệt.
Chiến sĩ Đoàn 113 luyện tập chân đất vượt rào thép gai.Nhấp ngụm trà nghi ngút khói, người đàn ông đã bước vào độ tuổi 75 ấy kể, vào thời điểm mùa xuân năm 1975, ông đang giữ chức Phó Trung đoàn đặc công 113 thuộc Binh chủng Đặc công.
Tháng 3 năm ấy, Đoàn 113 nhận lệnh đánh bằng được vào phía Đông của sân bay Biên Hòa, đánh phá kho bom Bình Ý và hướng dẫn cho pháo chiến dịch vào điểm xây dựng trận địa. Trong các nhiệm vụ ấy, việc phá kho bom Bình Ý để địch không còn bom đánh phá quân ta là cực khó bởi địch tập trung bố trí phòng vệ rất cẩn mật.
“Nhiều tổ trinh sát của chúng tôi khi đó không tiếp cận được bên trong kho bom bởi nhiều hàng rào phức tạp. Chúng tôi đào hầm, ăn nghỉ ngoài rào để đợi đến đêm sẽ vào trong đánh phá nhưng không được,” ông Ninh kể.
Khó khăn là vậy, nhưng cấp trên lại lệnh cho Đoàn 113 phải khẩn trương đánh kho bom cho kỳ được, thậm chí là dùng cách đánh của bộ binh. Sau khi bàn bạc với Chính ủy, ông Ninh đã quyết định báo cáo không thể đánh theo cách bộ binh bởi như vậy sẽ bị lộ và nhiều khả năng địch sẽ tập trung hỏa lực tiêu diệt cả Trung đoàn. Sau đó, ông xin gia hạn thêm 7 ngày để nghĩ cách phá kho bom.
Sau khi tìm hiểu kỹ địa hình, sơ đồ tác chiến…, ông Ninh đã cử một tổ gồm 5 chiến sĩ đặc công vượt sông Đồng Nai để tiếp cận với kho bom. Ở hướng đi này, 5 chiến sĩ đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và kho bom đã bị phá hủy.
Tháng 4-1975, Trung đoàn 113 lại nhận được lệnh đánh vào Chi khu Di An (Thủ Đức), Thiết đoàn cơ giới Hốc Bà Thức, chốt giữ một đoạn của xa lộ Biên Hòa và đánh phá cầu Ghềnh-một trong những cây cầu huyết mạch tiến về Sài Gòn.
Kế hoạch tác chiến được vạch ra, các chiến sĩ đã di chuyển tới các vị trí chiến đấu thì Trung đoàn 113 lại nhận được lệnh không đánh kho Di An, không được phá cầu mà phải đánh-giữ cầu Ghềnh chờ Đại quân tiến vào Sài Gòn.
Bản thân ông Ninh vào đêm 28-4 dẫn quân đánh chiếm Hốc Bà Thức, bắt được Đại tá chỉ huy Thiết đoàn của địch và hơn 30 tên lính. Sau khi đánh xong, lập tức ông chỉ huy cho các chiến sĩ phòng ngự bởi tới sáng 29, địch điên cuồng dùng máy bay, xe tăng tấn công hòng lấy lại căn cứ. Tuy nhiên, trước sự quyết liệt của các chiến sĩ đặc công, chúng đã điên cuồng đánh bom phá hủy chính căn cứ của mình.
Giữ cầu, bắc nhịp giành đại thắng
Nhiều trận đánh vang dội, nhưng có lẽ chiến công quan trọng nhất góp phần vào đại thắng 38 năm về trước của đặc công chính là việc đánh giữ 14 cây cầu huyết mạch vào Sài Gòn trong những ngày cuối cùng của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Việc này tạo điều kiện thuận lợi để 5 cánh quân thần tốc tiến thẳng vào giải phóng Sài Gòn, đánh thẳng vào cơ quan đầu não địch.
Về trận cầu Ghềnh, ông Ninh kể rằng, nhiệm vụ của đặc công trước kia thường đi… đánh, phá và công việc này được hoàn thành dễ dàng. Song, nhiệm vụ đi “đánh, chiếm, giữ” quả thật nặng nề. Để hoàn thành nhiệm vụ, đặc công phải tiêu diệt toàn bộ giặc trên cầu vào ban đêm một cách nhanh gọn.
Tuy đã diệt địch, nhưng đại quân vẫn chưa tới nên khi đã chiếm được cầu Ghềnh vào đêm 27, rạng sáng 28 thì tới cả ngày 28 và ngày 29, địch tổ chức nhiều đợt tấn công hòng cướp lại cây cầu huyết mạch.
Trước hỏa lực cực mạnh của quân thù, 50/52 chiến sĩ đặc công đã anh dũng hy sinh, song không ai vì thế mà rút khỏi trận địa. Cuối cùng, khi đại quân tiến vào, địch buộc phải rút chạy và nhiệm vụ bảo vệ cầu Ghềnh đã hoàn thành rực rỡ.
“Đặc công đánh và giữ cầu, song lại không thể biết khi nào đại quân tiến vào để có sự chuẩn bị hợp lý hơn,” ông Ninh trầm buồn khi nghĩ tới những người đồng đội đã ngã xuống trước thềm chiến thắng.
Trò chuyện với phóng viên Vietnam+, Thiếu tướng Trịnh Xuân Chuyền, Chính ủy Binh chủng Đặc công cho hay, đánh chiếm, giữ cầu là nhiệm vụ đặc biệt, thầm lặng, khó khăn, ác liệt, khốc liệt, có ý nghĩa quyết định đến bước tiến và thời cơ của Chiến dịch. Do đó, lần đầu tiên Bộ đội đặc công được sử dụng với một lực lượng lớn nhất gồm 1 sư đoàn (gồm 7 trung đoàn); 1 lữ đoàn; 4 tiểu đoàn và nhiều tổ, đội biệt động.
Theo lời tướng Chuyền, nhiều trận đánh chiếm, giữ cầu đã ghi những chiến công thầm lặng của bộ đội đặc công. Nhiều chiến sĩ đã hy sinh anh dũng không phải vì đánh cầu, mà là do giữ cầu, phục vụ chiến dịch. Bởi, nếu cầu bị phá, Đại quân sẽ mất rất nhiều thời gian để vừa bắc cầu qua sông, vừa chống lại địch bên kia sông dung hỏa lực tấn công.
Thực tế cũng cho thấy, ở nhiều trận đánh giữ cầu, lực lượng đặc công bị địch phản công đã phải gồng mình chống đỡ. Thậm chí, khi chỉ còn vài chiến sĩ, họ cũng quyết chiến đấu tới hơi thở cuối cùng. Bởi với họ, cầu còn thì người còn, cầu mất thì người chết.
Với sự quyết tâm ấy, cuối cùng, 14 cây cầu dẫn lối về Sài Gòn đã được bộ đội đặc công bảo vệ thành công, hiên ngang trong lửa đạn.
“Có thể nói, ngày toàn thắng lịch sử đã đến, giờ phút cuối cùng của Chiến dịch đã điểm nhưng máu của nhiều chiến sĩ đặc công vẫn đổ để cho những cây cầu được giữ vững, để bánh xích xe tăng, để ý chí và sức mạnh tổng hợp của năm cánh quân rầm rập băng qua những cây cầu, thần tốc tiến vào giải phóng Sài Gòn, góp phần làm nên mùa xuân đại thắng của dân tộc”, Thiếu tướng Trịnh Xuân Chuyền chốt lại.
Bài 2: Giải phóng Trường Sa bằng cách đánh mới, táo bạo
Nhận nhiệm vụ giải phóng Trường Sa, các chiến sĩ đặc công nước của Đoàn 126 (Quân chủng Hải quân Việt Nam)-dưới sự chỉ huy của Thượng tá Mai Năng áp dụng một chiến thuật đánh hoàn toàn mới, song đã giành được thắng lợi vang dội.
Điều này lại một lần nữa minh chứng, những chiến sĩ “đầu trần, chân đất” bộ đội cụ Hồ có thể làm nên những kỳ tích trong chiến đấu, giành lại máu thịt của quê hương bằng mưu trí can trường, thích nghi với mọi hoàn cảnh khó khăn nhất.
Rẽ sóng diệt giặc
Ở độ tuổi ngoại bát thập, song Thiếu tướng Mai Năng (Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân, nguyên Tư lệnh Binh chủng Đặc công) còn rất tinh tường. Kể về những trận chiến gian khó giành lại từng tấc đất quê hương với lớp trẻ, vị tướng già như trẻ lại, sôi nổi tới lạ kỳ.
Cán bộ, chiến sĩ Đoàn 126, Quân chủng Hải Quân nghe vị tướng già kể chuyện giải phóng Trường Sa.Ông bảo rằng, vào những ngày cuối tháng 3, đầu tháng 4 năm 1975, với những đòn tấn công của của quân giải phóng, hệ thống phòng ngự của địch ở miền Nam dần bị phá vỡ. Đây cũng chính là thời khắc Quân chủng Hải quân nhận lệnh từ Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Nhanh chóng tổ chức lực lượng, giải phóng các quần đảo do quân Ngụy Sài Gòn chiếm giữ trên quần đảo Trường Sa. Và, Đoàn 126 (đặc công) là đơn vị được lựa chọn thực hiện nhiệm vụ.
Theo lời tướng Mai Năng, đây là nhiệm vụ rất khó khăn tuy nhiên lại rất vinh dự bởi vùng biển này mang ý nghĩa to lớn cả về kinh tế lẫn quân sự. Cái khó ở đây là bộ đội đặc công đánh dưới nước của ta từ trước đến giờ đánh tầu, cầu, cảng và kho tàng của Hải quân đối phương chứ không phải đánh căn cứ, cứ điểm, đồn bốt.
Thêm vào đó, đặc công nước tuy của Hải quân nhưng lại không phải là người đi trên biển nên ít người chịu được sóng gió lớn. Đặc biệt, cách đánh của đặc công phải mắt thấy, tai nghe, chân đến, tay sờ thì mới chắc thắng. Thế nhưng, với quần đảo Trường Sa, đặc công của ta không sờ được, chưa đến được và cũng chưa thấy được. Câu hỏi đặt ra khi ấy là: Chưa trinh sát mà lại đánh, thì sẽ đánh cách nào?
Khó khăn là thế, nhưng lực lượng đặc công Hải quân lại rất vui sướng vì sẽ được tham gia vào trận đánh cuối cùng, vào chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử nên ai cũng hào hứng.
“Chúng tôi bàn với nhau: Xa mấy cũng đi, khó mấy cũng đến, đã đến là đánh và quyết thắng ngay từ trận đầu, hoàn thành nhiệm vụ Đại tướng Tổng Tư lệnh giao,” Thiếu tướng Mai Năng nhớ lại.
Hành quân vào Đà Nẵng vào cuối tháng 3, tới ngày 10/4/1975, hơn 200 chiến sĩ của Đoàn 126 do Thượng tá Mai Năng xuống 3 chiếc tàu không số, giả dạng làm tàu đánh cá xuất phát đi tới khu vực quần đảo Trường Sa. Tới ngày 13, ba chiếc tàu này đã tới khu vực đảo Song Tử Tây chuẩn bị quyết đấu trận đầu tiên. Tại đây, các chiến sĩ được chia làm 7 đội, nhắm mục tiêu 6 đảo và 1 đội cơ động sẵn sàng tiếp ứng.
Quyết chiến ở Song Tử Tây
Trước tình hình không trinh sát rõ trên đảo, Thượng tá Mai Năng chỉ huy các chiến sĩ phải tiến hành trinh sát vũ trang, có nghĩa là đi đến đâu đánh đến đó.
Nói về trận chiến giao tranh với giặc ở Song Tử Tây, Trung tá Đào Mạnh Hồng (Phó Ban kinh tế, Hội Cựu chiến binh Hải Phòng) cho phóng viên Vietnam+ hay, khi ấy ông phụ trách một mũi quân tiến công vào đảo.
Đêm 13, rạng sáng ngày 14-4, Trung tá Mai Năng giao nhiệm vụ cho phân đội của ông Hồng gồm 20 chiến sĩ xuống biển bằng xuồng cao su, vượt khoảng 5 hải lý đến Song Tử Tây. Cách đảo khoảng 2 hải lý, các chiến sĩ phải bỏ phao, bơi vào bờ. Tới khoảng 3 giờ 30 phút, các lực lượng đã áp sát mục tiêu trên đảo. Gần 4 giờ 30, trời mờ sáng đã giúp đặc công nhìn rõ mục tiêu (trên đảo có 3 lô cốt).
Đúng 4 giờ 30, những phát đạn đầu tiên đã nổ, những chiến sĩ “Bắc Việt” đầu tiên đặt chân lên mảnh đất thiêng liêng giữa trùng khơi của Tổ quốc bắt đầu trận đánh.
Theo lời ông Hồng, với đa phần các chiến sĩ, đây là trận đánh đầu tiên trong cuộc đời binh nghiệp. Trận chiến đấu với 39 tên lính Ngụy diễn ra hết sức quyết liệt và giằng co khi địch không còn đường lui. Cho dù bị các “kình ngư” bất thình lình tấn công, song húng quyết tâm “hất” các chiến sĩ đặc công trở lại biển.
Thế nhưng, với lòng quả cảm, chiến thuật tác chiến hợp lý, lực lượng đặc công đã dành chiến thắng, tiêu diệt 6 và bắt sống 33 tên địch (trong đó có 1 Thiếu úy, 1 Chuẩn úy). Ngoài ra, ta thu được 2 khẩu đại liên 50, 1 khẩu DKZ, 2 khẩu cối 61, 2 khẩu trung liên và nhiều súng bộ binh các loại.
Trong trận đánh này, lực lượng đặc công bị tổn thất 2 đồng chí (1 hy sinh tại chỗ, 1 đưa vào đất liền thì hy sinh). Đây cũng là trận đánh duy nhất trong đợt giải phóng Trường Sa tháng 4-1975 quân đội ta bị thiệt hại về quân số.
Sau khi giải phóng Song Tử Tây, lực lượng đặc công lập tức triển khai nhiệm vụ phòng thủ, chuyển thương binh, hàng binh về Đà Nẵng và nhanh chóng rút kinh nghiệm để đánh tiếp các đảo còn lại.
“Tới ngày 28-4, 6 đảo thuộc quần đảo Trường Sa đã hoàn toàn được giải phóng. Chúng tôi phòng thủ đến khoảng giữa tháng 5 thì một Trung đoàn thuộc Sư đoàn 2 (Quân khu 5) ra tiếp quản và đặc công lại về Sài Gòn làm nhiệm vụ mới,” Tướng Mai Năng nói.
Ông cũng kể rằng, trong thời khắc chiến thắng 30-4, không thể diễn tả được niềm vui của các chiến sĩ đặc công trên đảo. Bởi, sau nhiều xương máu của toàn quân, toàn dân đổ xuống, đất nước ta sẽ bước sang trang sử mới vẻ vang.
Theo TTXVN