Trong lịch sử kháng chiến giải phóng dân tộc trước năm 1975, có những góc khuất âm thầm nhưng tính nhân văn mãnh liệt khiến những ai thấu hiểu đều xúc động. Quãng đời cầm súng kháng chiến của bà Bảy Mô là một ví dụ tiêu biểu.
Con tem “Võ Thị Mô – Dũng sĩ diệt Mỹ xã Nhuận Đức”
Cha mẹ đều là cán bộ khởi nghĩa kháng Pháp ở ấp Xóm Bưng, Nhuận Đức, Củ Chi nên tất cả 11 anh chị em của bà đều tham gia phong trào kháng chiến giải phóng dân tộc từ tuổi thiếu niên. Ngôi nhà của gia đình bà cũng là ụ chiến đấu của quân giải phóng chủ lực trong chuỗi địa đạo Củ Chi.
Bà sinh năm 1955. Năm 13 tuổi, bà được hai cán bộ của Tiểu ban Điệp báo Ban An ninh Trung ương Cục (Ban An ninh R) tuyển dụng làm giao liên mật.
Năm 15 tuổi, do còn phải giúp cha chăm sóc vườn tược và 5 đứa em, bà đành ngưng công tác ở Tiểu ban Điệp báo và trở thành ấp Đội Phó Du kích ấp Xóm Bưng (xã Nhuận Đức). Gan dạ và chiến đấu giỏi, chỉ 1 năm sau, bà được rút lên làm Xã Đội phó, trực tiếp chỉ huy lực lượng du kích ấp Xóm Bưng.
Trung úy cựu Sỹ quan Lục quân Võ Thị Mô chụp ảnh lưu niệm với Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Với ý đồ "bóc vỏ quả đất để tìm và diệt tận gốc rễ các căn cứ của Mặt trận Giải phóng dân tộc", quân đội Mỹ tổ chức chiến dịch quân sự mang tên Cedar Falls đánh vào vùng Bắc Sài Gòn (khu vực Củ Chi). Sáng tinh mơ ngày 8-1-1967, Mỹ lùa 3 vạn quân, kể cả lính Mỹ và chư hầu tiến vào Củ Chi khai hỏa.
Nhờ đã được lãnh đạo xã quán triệt tinh thần từ những ngày cuối tháng 12-1966 nên sáng hôm đó khi đang tưới đậu thấy trực thăng Mỹ bay đầy trời, bà Bảy Mô đã hiểu quân Mỹ đã khai cuộc. Vất gàu tưới, bà nhanh chóng chạy về ụ chiến đấu. Ở đó đội du kích của bà cũng đã có mặt đầy đủ. Ngoài đội du kích còn có 2 tiểu đội C15 quân giải phóng chủ lực được R tăng viện để bám trụ. Tức là tổng quân số của ụ chiến đấu này chỉ hơn 30 tay súng. Vũ khí thì chỉ có tiểu liên carbin, CKC, AK và một số hầm chông được ngụy trang kín đáo, bố trí khắp nơi.
Về phía quân Mỹ thì mũi tấn công vào Xóm Bưng gồm 1 tiểu đoàn bộ binh trang bị đầy đủ hỏa lực, được pháo bầy yểm trợ.
Nhớ lại ký ức xưa, bà Bảy Mô kể: "Nếu đánh trực diện thì 1 tiểu đoàn bộ binh Mỹ nuốt sống hơn 30 tay súng quân ta. Cách đánh du kích là bám vào lợi thế địa hình địa vật và yếu tố bất ngờ. Quân Mỹ vừa lọt vào trận địa ta bày sẵn, chỉ cần bắn phát đầu tiên là chúng hoảng loạn, rối đội hình. Lớp thì té hầm chông, lớp thì bắn vung vãi vào lùm bụi không người".
Sau 2 giờ bị bắn tỉa, thiệt hại quân số hơn 20 người mà không nhận diện được vị trí của du kích nên không dám gọi pháo trấn áp, quân Mỹ đành gọi máy bay trực thăng đến thu quân. Liên tiếp cả tuần vờn nhau với quân Mỹ, dưới tài chỉ huy của bà Bảy Mô, trận địa Nhuận Đức được giữ vững. Tiếng tăm Bảy Mô vang khắp chiến khu. Đoàn phim giải phóng về trận địa quay cảnh Bảy Mô chiến đấu và dựng thành phim "Nữ du kích Củ Chi". Hình ảnh Bảy Mô trở thành biểu tượng cô du kích xinh đẹp ôm súng chiến đấu ngoan cường ở khắp chiến trường miền Nam.
Hai họa sỹ Huỳnh Phương Đông và Lê Văn Chương ở R xem tập phim tài liệu đó đã xúc động vẽ lại nhiều bức họa du kích Võ Thị Mô. Những bức họa này được Nhà Xuất bản Giải Phóng đưa vào tập sách ký họa "Miền Nam Việt Nam - Đất nước con người". Bản thảo được gởi sang Liên Xô (Nga) in ấn hàng triệu bản. Tập sách ký họa "Miền Nam Việt Nam - Đất nước con người" được phát hành khắp thế giới, kể cả Mỹ. Hình ảnh Võ Thị Mô trở thành biểu tượng kháng chiến bất khuất của con người Việt Nam.
Riêng bức ký họa của họa sỹ Lê Văn Chương được in vào tem bưu chính.
Người Mỹ sống sót
Năm 1965, đội nữ du kích Củ Chi được thành lập. Bảy Mô trở thành chỉ huy trưởng đầu tiên của Trung đội này.
Ngày 8-1-1966, quân Mỹ mở cuộc hành quân đại quy mô mang tên Crimp đánh vào Củ Chi. Với 12.000 quân, gồm 2 lữ đoàn (Lữ đoàn 2 và 3 thuộc Sư đoàn bộ binh số 1 - Anh Cả Đỏ), 1 tiểu đoàn công binh Úc, 8 tiểu đoàn Thủy quân lục chiến và Biệt kích Việt Nam Cộng hòa), 300 máy bay chiến đấu, 24 lượt rải bom B52, 600 pháo, 600 xe cơ giới…
Bảy Mô được giao nhiệm vụ chỉ huy đội nữ du kích giữ trận địa Nhuận Đức.
Một buổi sáng sớm trong chuỗi ngày căng thẳng này, một tiểu đoàn Mỹ đánh thẳng vào trận địa giăng sẵn của Bảy Mô. Bị phản kích bất ngờ, lính Mỹ bắn vu vạ rồi bật ngược trở ra, để lại một số tử thi. Nắm rõ "tính tình" quân Mỹ, thay vì rút lui, Bảy Mô cho quân áp sát đội hình địch. Vì vậy, khi quân Mỹ gọi pháo bắn "dọn bãi" đều rơi phía sau lưng đội hình của Bảy Mô. Mãi đến trưa, pháo ngừng bắn, mọi người đòi thu quân, Bảy Mô vẫn lệnh cho mọi người bám trận địa vì thấy máy bay trinh sát quần thảo trên bầu trời. Bảy Mô biết địch sẽ còn đổ quân.
Phục kích đến 2 giờ 30 phút chiều, bỗng từ mũi thước ngắm khẩu súng, Bảy Mô trông thấy lần lượt 4 người lính Mỹ bò ra từ bụi rậm. Họ trải một tấm vải dù ngay vị trí quả mìn gài của Bảy Mô. 4 người ngồi 4 góc khui đồ hộp đặt giữa tấm khăn rồi lấy thư, hình ảnh vợ con ra xem. 4 người lính Mỹ ôm nhau khóc ròng rồi đốt các lá thư và hình ảnh vợ con.
Lúc đó chiến sỹ liên lạc của Bảy Mô rất nôn nóng lấy danh hiệu "Dũng sỹ diệt Mỹ" nên đòi bắn. Bảy Mô kiên quyết không cho.
Nhớ lại chi tiết này, bà Bảy Mô kể: "Tôi đoán 4 anh lính Mỹ đó lấy hình ảnh vợ con và thư từ của những người vừa chết trong trận đánh buổi sáng. Có thể những người chết là bạn thân của họ. Tôi nghĩ, họ cũng có lương tâm như mình nhưng do bị ép buộc cầm súng đi xâm lược. Lúc đó, họ không cầm súng bắn vào mình. Vì vậy, tôi không thể bắn".
4 người lính Mỹ khóc chán chê rồi rút đi, để lại đống đồ hộp.
Uất ức vì không được lấy danh hiệu "dũng sỹ", ông Năm Nh. - chiến sỹ liên lạc đã ôm đống đồ hộp của 4 người lính Mỹ đến báo cáo với Chi bộ chuyện Bảy Mô không căm thù Mỹ. Trong cuộc họp Chi bộ tối hôm đó, ông Bí thư đùng đùng quát mắng. Bảy Mô trần tình nguyên do. Hiểu ra, ông Bí thư Chi bộ làm thinh, không khen chê cũng không kỷ luật. Cuộc họp chuyển sang nội dung bố trí đội hình đánh địch vào sáng hôm sau.
Câu chuyện tưởng chừng chìm vào bí mật nếu đêm đó không có một biến cố.
Sau cuộc họp tối hôm đó, ông Ba Th. - một cán bộ du kích - chạy về phía địch xin đầu hàng. Để "làm quà" đầu hàng, ngoài chuyện khai báo cách bố trí lực lượng chiến đấu của ta, ông Ba Th. còn kể chuyện Bảy Mô tha mạng của 4 anh lính Mỹ. 1 trong 4 người lính Mỹ đó đã tiếp cận Ba Th. để hỏi chi tiết câu chuyện.
Đó là Trung úy John Penycate. Ám ảnh chiến tranh và cái chết, John Penycate đã ghi chép vào sổ tay cá nhân mẩu chuyện đó như ghi nhận một ân nghĩa đối với người nữ du kích phía bên kia chiến tuyến. Từ câu chuyện này, John Penycate nung nấu tư tưởng chống đối cuộc chiến tranh phi nghĩa của quân đội Mỹ đối với nhân dân Việt Nam. Câu chuyện John Penycate và 3 anh lính Mỹ được quân du kích tha mạng lan khắp các doanh trại Sư đoàn 1 Mỹ đã góp phần tác động tâm lý bãi chiến trong sư đoàn.
John Penycate đã nhờ người gửi vào căn cứ một thùng quà cho Bảy Mô xem như đó là nghĩa cử tri ân.
Cuộc hội ngộ “đối phương” sau 20 năm
Năm 1970, bà Bảy Mô được rút về làm Phó huyện đội trưởng Củ Chi. Sau đó được Tướng Nguyễn Thị Định rút về R cho học quân sự ở đơn vị H12, tức Trường Sỹ quan Lục quân miền Nam. Học xong, Bảy Mô được giữ lại làm cán bộ huấn luyện sỹ quan, chuyên khoa du kích.
Kết thúc chiến tranh, Bảy Mô vẫn tiếp tục giảng dạy tại Trường Sỹ quan Lục quân cho đến năm 1978. Do sức khỏe yếu và cũng do kinh tế gia đình quá khó khăn, Bảy Mô xin ra quân với hàm Trung úy. Hộp tiếp đạn khẩu súng K54 mà Bảy Mô sử dụng được trưng bày tại Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam.
Chỉ quen chiến đấu, không hòa nhịp kịp với cuộc sống đời thường, bà Bảy Mô bươn chải đủ thứ nghề kiếm sống. Bà trôi dạt về tận Tây Ninh sống trong cảnh thiếu trước hụt sau.
Bà Bảy Mô và quyển sách "The tunnel of Cu Chi" (nhà xuất bản Berkly Newyork).
Phần John Penycate, sau khi trở về Mỹ đã trở thành nhà văn và tích cực tham gia vào làn sóng phản đối chiến tranh Việt Nam. Năm 1985, ông trở về Việt Nam đến Củ Chi tìm ân nhân Bảy Mô. Không ai còn biết bà Bảy Mô trôi dạt nơi đâu. Qua những người cựu chiến binh ở vùng Đất Thép Củ Chi, John Penycate đã có được cái nhìn toàn cục cuộc chiến bảo vệ đất nước của vùng đất này. Và cũng qua những người cựu chiến binh, ông ta cũng biết thêm cuộc đời ân nhân Bảy Mô của mình.
Đầu năm 1989, John Penycate liên kết với nhà báo, đạo diễn truyền hình Tom Mangold cho xuất bản quyển sách "The tunnel of Cu Chi" (nhà xuất bản Berkly New York). Quyển sách đã ca ngợi cuộc chiến đấu chính nghĩa, nhân văn của nhân dân Việt Nam qua hình tượng những người du kích Củ Chi. Trong đó, quyển sách dành hẳn một chương ca ngợi nữ du kích Bảy Mô.
Quyển sách trở thành best seller ở Anh, Mỹ. Ngay sau đó, lần lượt các nhà xuất bản Hodder, Stougton (London), Albin Michel (Paris) tái bản hàng triệu bản.
Mangold là một nhà báo, đạo diễn truyền hình cư trú ở Anh nhưng nổi danh khắp bán cầu phương Tây với các loạt phóng sự, điều tra chiến tranh.
Giữa năm 1989, nhà văn John Penycate và đạo diễn truyền hình Tom Mangold trở lại Củ Chi lần nữa với quyết tâm tìm bằng được Bảy Mô. Sau cả tháng dò hỏi, cuối cùng họ cũng tìm được bà tại ... Bệnh viện Tây Ninh. Bà kiệt sức vì chống chọi với cái nghèo.
Nhà văn John Penycate và đạo diễn truyền hình Tom Mangold nhờ Sở Ngoại Vụ Tây Ninh tổ chức một cuộc đón tiếp long trọng Bảy Mô tại một khách sạn của Công ty du lịch Tây Ninh để tặng sách.
Khi đến nơi, thấy tấm thảm đỏ, bà Bảy Mô rụt rè bỏ dép bên ngoài. John Penycate vội quỳ sụp xuống mang dép vào chân của bà rồi nói: "Bà là ân nhân của tôi. Ở đây, bà là người quan trọng nhất".
Khi kết thúc cuộc trò chuyện để quay phim tài liệu, John Penycate chân thành hỏi bà: "Bây giờ bà mong muốn gì? Bà có muốn tôi giúp bà một số tiền để cất nhà không?"
Bà Bảy Mô chân tình kể bằng giọng mộc mạc: "Trời ơi! Lúc đó đang khổ gần chết. Trong bụng thèm nói tôi cần tiền. Dì suy nghĩ lung lắm. Nếu nói cần tiền nó sẽ khinh mình. Sau khi đắn đo suy nghĩ, dì trả lời vầy, tôi cần đất nước hòa bình, không ai xâm lược. Ai xâm lược, tôi sẽ hô hào con cháu đánh nữa".
Cái mộc mạc chân quê của bà Bảy Mô đã khiến nhà văn John Penycate và đạo diễn truyền hình Tom Mangold xúc động đến rưng rưng nước mắt.
Hiện nay, bà Bảy Mô trở về sinh sống ở ấp Phú Lợi, xã Phú Mỹ Hưng, Củ Chi. Nhờ được đồng đội cũ giúp đỡ, bà có được một căn nhà khang trang và mảnh vườn trồng cây ăn trái. Cuộc sống đã tạm ổn định. Bà đang được đề nghị xét tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Theo CAND