Quyết định số 921/QĐ-UBND ngày 23-4-2009 của chủ tịch UBND huyện Bến Cát: Cần được xem xét và điều chỉnh

Cập nhật: 11-05-2010 | 00:00:00

Bà Nguyễn Thị Nhạn ngụ tại xã Chánh Phú Hòa, huyện Bến Cát khiếu nại QĐ số 921/QĐ-UBND ngày 23-4-2009 của Chủ tịch UBND huyện Bến Cát về việc giải quyết tranh chấp đất đai giữa bà với ông Lê Văn Lũy, vì đã công nhận QSDĐ cho hộ ông Lũy với diện tích đất 332m2 tọa lạc tại ấp 1A, xã Chánh Phú Hòa.

Thi công đường ĐT741 đoạn xã Chánh Phú Hòa

Năm 2007, bà Nguyễn Thị Nhạn đo đạc xin cấp GCN QSDĐ thì xảy ra tranh chấp với bà Nguyễn Thị Hạnh vợ ông Lê Văn Lũy. Ngày 27-4-2007, UBND xã Chánh Phú Hòa tổ chức hòa giải nhưng không thành. Đến tháng 7-2007 bà Hạnh chết, nên ngày 27-7-2007 UBND huyện Bến Cát có CV số 1552/UBND-NC không thụ lý giải quyết đơn của bà Hạnh. Ngày 8-1-2008, ông Lê Văn Lũy tiếp tục có đơn khiếu nại. Ngày 23-4-2009, UBND huyện Bến Cát ban hành QĐ số 921/QĐ-UBND về việc giải quyết đơn tranh chấp đất đai của ông Lũy với nội dung: Công nhận quyền quản lý sử dụng phần đất có diện tích 332m2 cho gia đình ông Lũy; về tài sản trên đất do các bên không tranh chấp nên các bên tự thương lượng nhau để giải quyết. Phía bà Nhạn không đồng ý nên tiếp tục khiếu nại lên UBND tỉnh.

Được biết, khu đất bà Nhạn tranh chấp với ông Lũy có diện tích 332m2; trong đó có 112,6m2 là đất HLBVĐB. Tại biên bản làm việc ngày 6-7-2009 và ngày 28-7-2009 bà Nhạn và ông Lũy, trình bày: Khu đất 332m2 có nguồn gốc của bà Nguyễn Thị Sang và ông Nguyễn Văn Nữa (đã chết) để lại, nhưng không có giấy tờ về việc tương phân, di chúc diện tích đất này cho ai trong thân tộc. Theo biên bản làm việc ngày 6-7-2009 của Thanh tra Sở TN-MT với bà Nhạn và ông Lũy và căn cứ biên bản khảo sát hiện trạng ngày 4-8-2009 thì diện tích đất 332m2 tranh chấp gồm 2 phần: 235m2 và 97m2. Ngày 21-12-2009, Thanh tra Sở TN-MT đã mời bà Nhạn và ông Lũy để tiến hành hòa giải việc tranh chấp diện tích đất 332m2, kết quả không thành. Theo QĐ số 921/QĐ-UBND ngày 23-4-2009 của UBND huyện Bến Cát thì: Diện tích 332m2 là do gia đình ông Lũy sử dụng ổn định từ năm 1963 đến nay, việc ông Lũy có nhu cầu dời nhà vào phần diện tích đất tranh chấp là thiết thực. Tuy nhiên, theo báo cáo xác minh của Thanh tra Sở TN-MT tại BC số 2355/BC-TNMT ngày 1-9-2009 thì: Phần diện tích nhà đất mà gia đình ông Lũy cất nhà ở sử dụng ổn định từ năm 1963 đến nay có diện tích là 362,7m2 là một phần thửa 452, nhưng không nằm trong diện tích đất 332m2 tranh chấp. Thực tế, diện tích đất nhà gia đình ông Lũy đang sử dụng 362,7m2 nhiều hơn diện tích tính thuế 250m2; đối với phần diện tích đất 235m2 thửa A, B, D theo sơ đồ đã thể hiện ông Lũy không có quá trình sử dụng, mà do trước năm 1985 ông Nguyễn Văn Nữa quản lý sử dụng, từ năm 1985 đến nay do bà Nhạn quản lý sử dụng; phần diện tích đất 97m2 thửa C theo sơ đồ và thuộc HLBVĐB ĐT741 chỉ có cây cối và các công trình của gia đình ông Lũy quản lý sử dụng như 2 cây xoài, 1 cây me, 1 giếng đóng.

Trên các cơ sở nêu trên và căn cứ Điều 50 Luật Đất đai năm 2003, cần xem xét công nhận QSDĐ cho hộ bà Nhạn diện tích 235m2 trong đó có 15,6m2 thuộc HLBVĐB ĐT741; công nhận QSDĐ cho hộ ông Lũy diện tích 97m2 thuộc HLBVĐB ĐT741 là đúng với quy định của pháp luật.

PHƯƠNG HÙNG

Chia sẻ bài viết

LƯU Ý: BDO sẽ biên tập ý kiến của bạn đọc trước khi xuất bản. BDO hoan nghênh những ý kiến khách quan, có tính xây dựng và có quyền không sử dụng những ý kiến cực đoan không phù hợp. Vui lòng gõ tiếng việt có dấu, cám ơn sự đóng góp của bạn đọc.

Gửi file đính kèm không quá 10MB Đính kèm File
Quay lên trên