Sống như anh

Cập nhật: 18-09-2012 | 00:00:00

Bài 1:Thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh

Bài 2: Sống như anh

Ngày 15-10-1964, người thanh niên trẻ măng mặc bộ đồ trắng, bị bịt mắt, đứng bên cái cọc, dù lẻ loi nhưng hiên ngang, ngạo nghễ trước họng súng của quân thù. Tin anh Nguyễn Văn Trỗi hy sinh đã làm xúc động lòng người, làm nhói đau trong tim họ và sục sôi lòng căm phẫn về sự hèn hạ của chế độ Mỹ - ngụy. Anh Trỗi ngã xuống đã cổ vũ hàng vạn thanh niên hăng hái lên đường ra trận. Chúng tôi thấy trong kỷ vật của chị có lưu giữ bức ảnh anh Trỗi trước pháp trường và chị dành nhiều trang viết đầy cảm xúc về gương hy sinh anh dũng của anh.  Anh Trỗi đứng hiên ngang trước họng súng quân thù (ảnh lưu giữ kèm theo nhật ký)

Quyết tâm “sống, chiến đấu như anh...”

Anh hùng Nguyễn Văn Trỗi sinh ra ở xã Điện Thắng Trung, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nông dân nghèo, chẳng may mồ côi mẹ từ nhỏ, tuổi thơ rất cực khổ. Năm 10 tuổi, anh vào Sài Gòn học nghề thợ điện, đạp xích lô... cũng từ đó, anh Trỗi được các chú, các anh dìu dắt giác ngộ cách mạng. Đầu năm 1964, anh Trỗi nhận nhiệm vụ đánh sập cầu Công Lý ở Sài Gòn và phục kích diệt tay Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Mc Namara. Để phục vụ cho trận đánh này, anh đã bán chiếc nhẫn cưới để mua dây điện. Ngày 9-5-1964, tại cầu Công Lý, trong lúc đang nối dây điện tới quả mìn thì anh bị địch phát hiện. Anh Trỗi sa vào tay giặc. Trong ngục tù, kẻ thù dùng mọi thủ đoạn tra tấn, dụ dỗ nhưng anh Trỗi vẫn nhất mực gìn giữ lòng son sắt với Đảng, với nhân dân. Không cách nào khuất phục được anh, ngày 15-10-1964, kẻ thù ra lệnh tử hình anh Trỗi tại khám Chí Hòa; khi ấy anh mới 24 tuổi. Trước lúc hy sinh, anh Trỗi nhiều lần hô lớn: “Hồ Chí Minh muôn năm. Việt Nam muôn năm”! Lời hô của anh như tiếng kèn xung trận, thôi thúc bao thế hệ thanh niên lao vào cuộc chiến đấu mới để giải phóng dân tộc. Anh hùng Nguyễn Văn Trỗi đã sống xứng đáng - chết vẻ vang, như lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Vì Tổ quốc, vì nhân dân, liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi đã anh dũng đấu tranh chống đế quốc Mỹ đến hơi thở cuối cùng”.   Bài thơ kỷ niệm ngày giỗ lần thứ 2 của anh Trỗi

Hình ảnh người anh hùng trẻ tuổi bất khuất, kiên cường vào thời điểm đó đã trở thành thần tượng của nhiều thanh niên yêu nước. Do đó, trong hành trang của người lính trẻ, trong kỷ vật của các liệt sĩ thường lưu giữ hình ảnh anh Trỗi cũng là điều dễ hiểu. Riêng chị - người lính - tác giả cuốn nhật ký, có cùng lứa tuổi với anh Trỗi đã xem anh như là tấm gương sáng để noi theo trong học tập, chiến đấu. Bức ảnh của anh Trỗi kèm trong kỷ vật của chị, có dòng chữ: “Nguyễn Văn Trỗi sống mãi, một Nguyễn Văn Trỗi ngã xuống, hàng vạn Nguyễn Văn Trỗi đứng lên”. Trên đường hành quân vào ngày 10-10-1966, nhớ về anh Trỗi, chị viết: “Chỉ còn mấy ngày nữa là đến ngày kỷ niệm, ngày giỗ lần thứ 2 của anh Trỗi. Để thiết thực kỷ niệm ngày hy sinh anh dũng của anh, mình phải làm gì? Trong công tác đối với kẻ thù, đối với đồng chí, đồng đội phải như thế nào? Đạo đức người cách mạng, người cộng sản, đối với người thân yêu... đó là những vấn đề cần tính làm thế nào cho được tốt toàn diện...”. Rồi đến ngày giỗ anh Trỗi 15-10-1966, chị làm bài thơ về anh: “Quên sao được tháng mười - sáu bốn/ Ngày 15 anh Trỗi đã hy sinh/ Vì quyền dân tộc của mình/ Tự do độc lập dân sinh giống nòi/ Anh đã chết nhưng anh vẫn sống/ Sống trong lòng nam nữ thanh niên/ Tươi thêm giọt máu vào tim/ Hôm nay tôi lại nhớ đến anh/ Người đồng chí đấu tranh dũng cảm/ Gương anh khắc mãi trong tim/ Khí tiết cách mạng con đường Mác - Lê/ Nhớ anh, tôi nhớ lời anh dặn/ Nhớ anh, sống chiến đấu như anh/ Làm sao xứng với tuổi xanh/ Giải phóng đất nước đoạt thành ước mơ...”.

“Hãy đi lên tìm chân lý sống”

Có thể nói đây là cuốn nhật ký của người nữ chiến sĩ, người đảng viên có học thức và năng khiếu thơ ca. Những trang cuối chị viết rất nhiều bài thơ. Trang cuối cùng ghi ngày 20-10-1966 mới viết được vài dòng dở dang, nét chữ cũng không còn đẹp như ban đầu. Có thể thời khắc này, chị cùng đồng đội đang bước vào cuộc chiến ác liệt và rồi mãi mãi nằm xuống trên mảnh đất Chiến khu Đ anh hùng. Đọc nhật ký của chị, chúng tôi vô cùng xúc động và tự hào. Không xúc động sao được, là nữ nhi, tuổi đời còn rất trẻ nhưng sớm giác ngộ cách mạng với bao ước mơ cháy bỏng cho tương lai nay chị đành gác lại, thân xác chị đã ngủ yên trong lòng đất này đã 46 năm qua.

Trách nhiệm của người chiến sĩ, tinh thần hăng hái học tập luôn thể hiện xuyên suốt trong những trang nhật ký này đã được viết ra cách đây gần 50 năm nhưng giờ đọc lại vẫn còn hiển hiện tính thời sự, sục sôi lý tưởng cách mạng, chị viết: “Hãy lo hoàn thành tốt nhiệm vụ trước mắt. Muốn được tiến bộ, làm tốt công tác của mình hơn, bản thân luôn nhớ và trau dồi, thực hiện mấy phần sau: không ngừng tu dưỡng tinh thần, tư tưởng của người cộng sản. Ra sức học tập đồng chí, học tập từ hội nghị. Không ngừng phát huy đúng mức ưu điểm của mình. Đẩy mạnh hòa mình lao động với đồng chí, với anh chị em. Luôn khiêm tốn, soi rọi bản thân qua từng đợt...”.

Và đôi khi chị có những dòng viết thoáng qua về tình cảm của bản thân với nỗi trăn trở, mất mát bởi chiến tranh gây nên. Ngày 21-1-1966, chị viết: “Đến gặp anh C để bàn giao công tác. Một tin làm mình xúc động vô cùng vì người thân đã sa vào tay giặc ngày 8-1. Mình buồn và có suy nghĩ nhiều dù rằng đối với mình chưa có gì là khái niệm sâu sắc trong lòng, ngoài tình đồng chí, tình cảm cách mạng, nhưng mình coi anh ấy là người bạn... và cũng là người lý tưởng của mình...”. Và để tự động viên sự mất mát của bản thân, chị viết: “Mình lại nghĩ đến tình yêu cao thượng của anh Trỗi, chị Quyên, đôi vợ chồng vừa cưới nhau được 20 ngày, mới chung sống thời gian ít như vậy mà vội chia ly vĩnh viễn. Trường hợp mình cũng gần giống vậy nhưng mình phải đặt vào tổ chức kỷ luật cao...”. Toàn bộ cuốn nhật ký, chỉ có mấy dòng ngắn ngủi trên dành cho chị nói về bản thân, một chút riêng tư. “Biết hy sinh nên chẳng nhiều lời”, “Khi Tổ quốc cần chúng mình biết hy sinh”, đó là lý tưởng của thanh niên khi dân tộc bị lâm nguy, có giặc ngoại xâm. Tình yêu thời chiến bao giờ cũng đẹp như huyền thoại. Ở Bảo tàng Quảng Trị có câu chuyện: Những năm sau ngày giải phóng, trong lúc thi công những người thợ đã phát hiện một căn hầm có 5 hài cốt chiến sĩ đang trong tư thế ngồi đã bị một quả bom của địch dội trúng lối ra. Một bộ hài cốt tựa vào thành hầm, vẫn còn mang trên mình chiếc xắc-cốt, trong đó có lá thư ký tên Phan Thị Biển Khơi. Qua các kỷ vật tìm thấy, khẳng định đây là của liệt sĩ, thượng úy Lê Binh Chủng, Chính trị viên Phó tiểu đoàn K10, Quảng Trị. Bức thư tình nằm dưới lòng đất lạnh đã mấy mươi năm nhưng nét chữ vẫn còn đọc được. Nội dung thư rất cảm động, được chị Khơi gửi cho chồng nhưng anh Chủng chưa kịp biên thư hồi âm thì đã hy sinh. Mấy chục năm ròng, nhiều lần chị Khơi đi tìm hài cốt  nhưng không biết anh nằm ở đâu, trong lòng thương nhớ khôn nguôi. Nhờ lá thư này có địa chỉ rõ ràng mà hài cốt của người chiến sĩ này đã được đưa về với gia đình, quê hương.

Tình yêu thời chiến thật đẹp và cũng khắc nghiệt, dồn nén tất cả để dành mọi hy sinh, cống hiến cho Tổ quốc. Chúng tôi không tìm thấy thư tình trong kỷ vật của người nữ chiến sĩ trẻ này nhưng những dòng chữ của chị đối với người bạn trai đã bị địch bắt rất đáng khâm phục. Cuối những trang viết này, chị ghi rõ từng chữ: “Hãy đi lên tìm chân lý sống”. Câu chữ như là lời nhắc nhở phải vượt qua đau thương, mất mát để tiến lên phía trước. Thật tự hào cho khí phách của lớp người trẻ thời ấy, biết bao!

Nhật ký thế hệ Hồ Chí Minh (tiếp theo)

- Ngày 30-11-1964: Học tập xong phần giáo dục và bắt đầu kiểm tra.

Trong thời gian qua M. có nhiều nỗ lực trong học tập, trong công tác, có nhiều ưu điểm trong tất cả các mặt sinh hoạt. Nhưng bên cạnh đó, còn có những khiếm khuyết, bản thân cần khắc phục  tiến lên, nhất là phần lý luận. Cần phải đấu tranh tư tưởng vươn lên hơn nữa theo hướng học tập mà M. đã xác định.

Tập trung cao độ, khắc phục những thiếu sót, gạt bỏ tư tưởng không hay, chủ nghĩa cá nhân. Hãy vì tập thể, cùng tương trợ nhau trong học tập và công tác.

Thi hành tốt trách nhiệm, bồi dưỡng giúp đỡ đồng chí tiến bộ qua sự phân công của tổ Đoàn.

Luôn nhớ đạo đức người cộng sản “Vì mọi người, vô tư mà học tập, công tác”.

Rèn luyện bản thân về kiến thức văn hóa, đạo đức cách mạng.

- Ngày 6-12-1964: Đêm nay được nghe đồng chí nhà báo Tô Quyên kể lại những sự việc, sinh hoạt ở vùng nông thôn giải phóng, cụ thể là Long An... Về các mặt đời sống sinh hoạt, kinh tế, phong tục, mê tín dị đoan, phong trào tham gia cách mạng, đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. Một việc gần gũi nhất với mình là phong trào giáo dục, công tác giáo dục của nhà giáo, đó là những điều thực tế, quan hệ đến bản thân mình.

Nhớ lại quá khứ, thời gian công tác giảng dạy, hiện rõ mồn một nhiều sai lầm, thiếu sót mà trước đây mình vấp phải. Bổ túc đẩy mạnh phong trào bình dân học vụ, chống giặc dốt là rất quan trọng mà M. chưa làm hết được. Nói  chung về mọi mặt, M. còn phải học tập nhiều hơn mới xứng đáng là một thanh niên cách mạng, thanh niên cộng sản.

(Một phần nữa về văn nghệ, thể dục, thể thao cần tham gia nhiều hơn).

Đây là nơi rèn luyện để trở thành con người mới, con người toàn diện, một giáo viên phát triển toàn diện. M. cần cố gắng nhiều, nỗ lực học tập khắc phục những thiếu sót để tiến bộ. Học tập đạo đức người cách mạng, người cộng sản.

HT 1217 B/b25

- Ngày 20-12-1964: Kỷ niệm 4 năm ngày thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Chiến sĩ giải phóng quân giết nhiều giặc. Người giáo viên nhân dân trên trận tuyến văn hóa cần phải học tập nỗ lực nhiều hơn nữa.

- Đêm 1-1-1965: Đêm nay được nghe chú Năm nói chuyện tình hình thời sự, M. rất phấn khởi. Quân và dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, ngày một nhiều hơn, vẻ vang hơn. M. phải nỗ lực trau dồi để tiến kịp bè bạn, giàu lòng yêu nước, căm thù giặc sâu sắc và dám hy sinh tính mạng khi Tổ quốc cần đến. Phải tỏ thái độ dứt khoát bạn - thù, trước mặt kẻ thù không do dự.

Qua lời kể của chú Năm, M. soi rọi bản thân, phải cần học tập thêm, tư tưởng luôn hướng đến lý tưởng cộng sản, chân lý của cách mạng.

“Ta hãy nghĩ đến Tổ quốc nhiều hơn - vì Tổ quốc”. Vâng! M. phải cố gắng làm được. Tự kiểm điểm lại mình, M. thấy mình còn thiếu sót là chưa tận tình giúp đỡ những bạn nhỏ tuổi hơn mình, phải quan tâm nhiều hơn những bạn mà tổ Đoàn phân công mình giúp đỡ.

- Tuổi còn trẻ

- Đời còn dài

- Vì Tổ quốc

- Nghĩ đến Tổ quốc nhiều hơn

- Gạt bỏ tư tưởng cá nhân

- Học tập trau dồi nhiều hơn, tốt hơn.

- Ngày 10-1-1965: Qua kỳ kiểm tra lịch sử, M. thấy rằng bản thân  mình  cần tránh bệnh chủ quan, chỉ tập trung trọng tâm mà quên đi những việc nhỏ của bài vở, kết quả chưa hài lòng.

Hướng tới: Cần phấn đấu hơn nữa trong học tập, tập trung cao độ, đào sâu suy nghĩ, nghiên cứu nhiều, có như vậy tư tưởng mới thoải mái, học tập đem lại kết quả tốt. Như thế mới xứng đáng là đứa con của gia đình, của cách mạng, của Đảng.

“QUYẾT TÂM KHẮC PHỤC TỐT”

- Ngày 22-1-1965: Qua bài kiểm tra, M. thấy được khuyết điểm của mình là nghiên cứu chưa sâu, nắm vấn đề chưa chắc, chưa tập trung hết tư tưởng.

Phải cố gắng thật nhiều, “vì nhân dân, vì Tổ quốc vô tư mà học tập”.

- Ngày 11-2-1965: 2 ngày qua, M. bị đau, không học hành được gì. Uống thuốc đã đỡ nhưng vẫn mệt nhiều. Cố đấu tranh tư tưởng để vượt qua cơn bệnh, học tập tích cực hơn. Vì không còn bao lâu nữa M. sẽ về địa phương công tác, va chạm vào thực tế. Trong thời gian ở đây, M. cần trui rèn tư tưởng chuẩn bị sẵn sàng để trở về tiếp nhận môi trường mới.

- Ngày 14-2-1965: Mấy ngày qua (13, 14) được học tập, xem triển lãm về hội họa của trường hội họa Trung ương tổ chức. Chỉ còn mấy ngày nữa là kết thúc lớp học nên M. phải tập trung cao độ, không nghĩ sai lệch để rồi tự khó chịu với bản thân mình.

“Khắc phục sửa chữa tốt thì học tập mới đạt nhiều kết quả tốt”.

- Ngày 27-5-1965: Lễ bế giảng với không khí tưng bừng, nhộn nhịp, với biết bao phấn khởi, vui tươi. Đến dự có đại diện BT, đại diện Đảng, Trung ương, Mặt trận. M. mãi mãi ghi sâu. Số kiến thức mà M. có được chỉ là bước đầu, phải luôn trau dồi nghiệp vụ, trình độ văn hóa, trình độ chính trị.

“Chính trị là thống soái, nghiệp vụ là trung tâm, văn hóa là cơ sở” phải là người học trò nhỏ của quần chúng, tin tưởng hoàn toàn và bồi dưỡng văn hóa cho họ.

Tin tưởng - phấn khởi khi trở lại địa phương công tác. (Còn tiếp)

Q.H (ghi)

Bài 3: Những bức ảnh sống mãi với thời gian

KIẾN GIANG

Chia sẻ bài viết

LƯU Ý: BDO sẽ biên tập ý kiến của bạn đọc trước khi xuất bản. BDO hoan nghênh những ý kiến khách quan, có tính xây dựng và có quyền không sử dụng những ý kiến cực đoan không phù hợp. Vui lòng gõ tiếng việt có dấu, cám ơn sự đóng góp của bạn đọc.

Gửi file đính kèm không quá 10MB Đính kèm File
Quay lên trên