Hoạt động hỗ trợ tình báo (ISA) đóng vai trò là nhóm tình báo chuyên dụng cho Bộ Tư lệnh hành quân đặc biệt Mỹ (SOCOM). ISA không chuyên về chiến đấu trực tiếp mà là ngả về các hoạt động mật nhằm hỗ trợ những hoạt động quân sự khác. Phạm vi của ISA khá lớn và thường làm việc với sự hỗ trợ của Bộ Tư lệnh hoạt động đặc biệt chung (JSOC), SOCOM và các cơ quan tình báo khác. Ban đầu ISA hoạt động như một nhánh chiến thuật của NSA.
Ngày nay ISA tập trung vào việc chuẩn bị chiến trường cho các hoạt động quân sự trên toàn cầu, chủ yếu đóng vai trò hỗ trợ cho các đơn vị nhiệm vụ đặc biệt của JSOC. Trong khi các lực lượng Delta và DEVGRU tập trung trực tiếp vào việc tham gia vào các hoạt động chiến thuật chiến đấu chuyên biệt thì ISA lại tiến hành các hoạt động gián điệp và tình báo ở cấp độ chiến thuật. ISA tiến hành các hoạt động trong và trước các hoạt động quân sự của Mỹ. Tình báo con người (HUMINT) và tình báo tín hiệu (SIGINT) là những sản phẩm phổ biến của ISA. Ngoài ra còn có các nhóm bên trong ISA có thể trực tiếp hành động nếu có nhu cầu.
Các đặc vụ ISA trong một lần thực hiện nhiệm vụ tại Afghanistan
ISA và nhu cầu thực tiễn
Năm 1965, Bộ Quốc phòng Mỹ đã vạch ra nhu cầu cần thiết tham gia nhiều hơn vào thu thập tình báo, việc này được hậu thuẫn bởi Robert McNamara. Quân đội Mỹ tìm cách thực hiện các hoạt động tình báo mà không cần đến các cơ quan tình báo trong nước. Ban đầu, đơn vị này có tên là Nhóm hoạt động thực địa (FOG) và được thiết kế để đáp ứng nhu cầu thu thập thông tin tình báo của Lục quân.
Năm 1979, nhu cầu cần thiết phải có một đơn vị tình báo hoạt động đặc biệt đã được củng cố sau khi nhà độc tài Nicaragua, Anastasio Somoza bị hạ bệ. Mỹ muốn một nhóm tiến hành khảo sát mật tình hình thực địa và cung cấp cho các quan chức một cuộc khảo sát của đại sứ quán Mỹ. Các thành viên FOG đã xâm nhập Nicaragua bằng hộ chiếu giả. Khi họ đến, họ đã chụp mọi góc của đại sứ quán Mỹ, ghi lại mọi loại khóa cửa nhà, bên trong và ngoài, ghi lại số lượng cửa sổ và lối thoát, nhằm tạo ra bản thiết kế của tòa nhà. Nhận ra tiềm năng của FOG, Mỹ đã bắt đầu khảo sát các đại sứ quán trên khắp thế giới.
Mặt khác, thất bại của chiến dịch “Móng vuốt đại bàng” là một bước ngoặt đối với các hoạt động đặc biệt Mỹ. Đó là sứ mạng đầu tiên của Lực lượng Delta và thất bại thảm hại. Sau đó FOG đã nỗ lực thu thập tình báo ở Iran nhằm chuẩn bị cho Chiến dịch Credible Sport – nỗ lực thứ 2 nhằm giải cứu các con tin. FOG đã xâm nhập bí mật vào Tehran và thu thập tình báo được yêu cầu. Cuối cùng,
Chiến dịch Credible Sport bị hủy, nhưng FOG đã chứng minh được tính hữu dụng của họ: thay vì giải tán đơn vị này thì nó lại được mở rộng, FOG đổi tên mới là ISA và trở thành một đơn vị chính thức vào ngày 29 tháng Giêng năm 1981. ISA bao gồm 5 yếu tố chính: quản trị, đào tạo, Sigint, Humint và hành động trực. Ngoài ra còn có 4 tiểu đoàn chính (300 điệp viên) với nhiều trách nhiệm khác nhau. Ngay trong 4 tiểu đoàn này còn có các nhóm hoạt động mạng, nhóm công nghệ và các nhóm hỗ trợ nhiệm vụ. Nhóm hoạt động mạng mở rộng sang những lĩnh vực thu thập tình báo khác bao gồm OSINT (chiến tranh mạng và tình báo về mối đe dọa mạng).
ISA ưu tiên tuyển các ứng viên có kỹ năng thể chất cho những hoạt động thực địa và kỹ năng cho các hoạt động tình báo. ISA đã rút khỏi Mũ Nồi Xanh do kinh nghiệm hoạt động đặc biệt trước đây của họ, kỹ năng ngôn ngữ và tự chủ. Các thành viên ISA đều là những nhà đa ngôn ngữ. ISA tuyển lựa đặc vụ để triển khai phần lớn dựa trên ngôn ngữ và khả năng hòa nhập cộng đồng dân cư địa phương của họ.
Ngoài ra ISA còn tuyển dụng từ các chi nhánh khác của Lục quân và cả trong cộng đồng tình báo. Trong các khóa huấn luyện, ứng viên được dạy về kỹ thuật xâm nhập, hoạt động hàng không tiên tiến, tấn công và lái xe địa hình, phòng thủ cá nhân và thông tin liên lạc. Một khi các ứng viên vượt qua giai đoạn huấn luyện ban đầu, vòng thứ hai là họ sẽ được đào tạo cùng với các chuyên gia tình báo khác nhau, bao gồm cả các thành viên của CIA.
Đặc thù
Thông qua công tác thu thập OSINT (chiến tranh mạng và tình báo về mối đe dọa mạng) thì nhóm tác giả bài viết này biết được rằng ISA gồm có 3 phi đội chính. 1- Phi đội các hoạt động (OS). Đôi khi còn có các tên gọi khác là Humint hay Phi đội mặt đất, chức năng chính của OS như là phi đội thu thập Humint cho ISA. Năm 2003, 4 cánh quân A,B,C,D nhập lại tạo thành OS.
Trong đó các cánh quân Alpha và Charlie thực hiện các hoạt động mật thu thập tình báo con người. Có nghĩa là chính phủ của nước mà những cánh quân này đang hoạt động đều hiểu rằng họ làm việc cho chính phủ Mỹ, tuy nhiên không nhất thiết phải biết họ là gián điệp. Họ được bảo vệ bởi quyền miễn trừ ngoại giao nếu bị xâm phạm vào hoạt động gián điệp. Các cánh quân Bravo và Delta sử dụng vỏ bọc thương mại hoặc phi chính thức, cụ thể là một doanh nhân quốc tế. Cánh quân Delta xâm nhập dễ dàng hơn vào các nước Philippines hoặc Morocco.
Cánh quân Bravo giải quyết những nhiệm vụ cực kỳ nan giải ở những quốc gia mục tiêu như Syria, họ tự hào có mạng lưới phản gián cực kỳ tinh vi. 2- Phi đội Sigint (SS). SS chịu trách nhiệm cho các sứ mạng tình báo tín hiệu của ISA. Trên mặt đất, những đặc vụ này dùng ăng ten định hướng được lập trình để thu tín hiệu của điện thoại di động cụ thể, từ đây sẽ cung cấp cho Lực lượng Delta một tòa nhà mục tiêu để đột kích.
Dù không biết chắc sự phân chia của phi đội này, nhưng các chuyên gia đặt ra giả định rằng phi đội này được phân chia dựa theo nhiệm vụ cụ thể, chẳng hạn như Sigint trên không, hoặc Sigint trên bộ. 3- Phi đội hỗ trợ nhiệm vụ (MSS). MSS đảm nhận mua sắm trang thiết bị, nhận tài trợ cho các hoạt động / huấn luyện, và các chức năng nhân sự. Tổng hành dinh của ISA đặt ở Fort Belvoir (tiểu bang Virginia), nhưng các phi đội lại nằm rải rác trên khắp khu vực Maryland / Washington D.C./ Virginia.
Thu thập tình báo của ISA là một trong những nhiệm vụ thiết yếu nhất. Các đặc vụ ISA có kỹ năng chuyên môn rất cao trong các nghệ thuật thu thập Humint bao gồm: Sàng lọc, đặt câu hỏi chiến thuật, phỏng vấn, hoạt động liên lạc và thẩm vấn. Một thành phần quan trọng của hoạt động mật là khả năng xâm nhập vào lãnh thổ đối phương trước khi có hành động quân sự chính thức.
Theo tiêu chuẩn của ISA thì các điệp viên muốn xâm nhập thành công buộc phải hội tụ đủ những điều kiện sau đây: Hiểu phong tục địa phương; mặc quần áo như người địa phương, thậm chí trong từng khu vực cụ thể; hiểu luật pháp gồm cả luật địa phương và quốc gia; rành rẽ phong tục truyền thống (tôn giáo, chính trị, xã hội); sự khác nhau trong hành vi con người; Giao tiếp phi ngôn ngữ. ISA rất quan tâm tới vấn đề sắc tộc khi triển khai các đặc vụ nhằm tạo ra vỏ bọc hoàn hảo hơn.
Hỗ trợ hoạt động tích cực cũng là một vai trò quan trọng của ISA. Điều này đã được thể hiện rõ nét thông qua các hoạt động ở Afghanistan, Chiến dịch thu hoạch mùa đông và Chiến dịch thợ săn Nữ hoàng. Người ta biết nhiều về ISA chủ yếu thông qua sự tham gia của nó trong Chiến dịch Anaconda. Ngoài ra, ISA còn đóng vai yếu tố bảo mật giả cho CIA.
Năm 2003, CIA và ISA cùng tiến hành một hoạt động chung ở Somalia, tại đó, CIA cùng với ISA đã dẫn đầu các cuộc biểu tình ở Somalia và giúp các lãnh chúa địa phương. Một điều càng nên biết rằng các đặc vụ ISA là những bậc thầy về gián điệp (các thành viên của cơ quan này được đào tạo chéo với CIA – cơ quan tình báo dân sự toàn diện nhất của Mỹ). Các điệp viên ISA rất giỏi ngụy trang để tránh bị phát hiện. Các điệp viên Humint còn giả dạng thành các đôi vợ chồng để sống chung và tiến hành các nhiệm vụ thu thập tình báo ngay trong nước bị nhắm mục tiêu.
Các chiến dịch đặc biệt
Như nhiều nhóm hoạt động đặc biệt khác, kho vũ khí của ISA là một loạt các loại vũ khí khác nhau luôn sẵn sàng cho từng nhu cầu của các đơn vị của nó. Phần lớn các học viên ISA đều đến từ Các lực lượng đặc biệt lục quân (ASF) có nghĩa là nhiều người sẽ thành thạo các kỹ năng CQC (bắn tỉa, chống bắn tỉa và giao chiến chiến thuật).
Các thành viên của 4 tiểu đoàn chính sẽ là những chuyên gia chiến đấu sử dụng nhiều kỹ năng và cần một lượng lớn vũ khí đa dạng. Danh mục các loại vũ khí mà điệp viên ISA sử dụng bao gồm: Súng trường là các loại: M4A1, M4A1 Block II, HK 416, HK 416c, AKM, AK-74; súng tiểu liên là 2 loại MP5k và MP7; súng lục là 4 loại Glock 17, Glock 19, Glock 26, Sig M17.
Đối với một đơn vị kiểu như ISA, súng không phải là vũ khí chính mà thay vào đó là các công cụ như vô tuyến, máy tính đóng góp quan trọng vào sự thành công của các nhiệm vụ. ISA nổi tiếng trong việc sử dụng những bộ tách tín hiệu để thu tín hiệu vô tuyến của địch và nhắm vào vị trí đó. ISA tiến hành giám sát gần với camera, hay có thể tiến vào “sào huyệt” của bọn khủng bố để đặt các camera ẩn. Có thời điểm trong Chiến tranh chống khủng bố toàn cầu, ISA cùng với không lực và Lực lượng Delta đã chế tạo một hạm đội máy bay ISR gồm 15 loại máy bay khác nhau kết hợp nâng tổng số lên 40 máy bay, tất cả các máy bay này đều được trang bị công nghệ đánh chặn Sigint.
Mọi thành phần của quân đội Hoa Kỳ đều tham gia vào cuộc chiến Afghanistan, bao gồm cả ISA. Dưới sự hướng dẫn của Bộ Tư lệnh hành quân đặc biệt chung (JSOC), ISA hoạt động cùng với JSOC và CIA dưới tên mã Gray Fox. Các điệp viên Gray Fox cùng các chuyên gia tình báo đã hoạt động cùng với những đơn vị hành quân đặc biệt khác bao gồm Lực lượng Delta và DEVGRU (Nhóm triển khai chiến tranh đặc biệt hải quân Hoa Kỳ) cũng như các thành phần của quân đội.
Phần lớn các hoạt động của ISA tại Afghanistan vẫn được giữ bí mật, tuy nhiên Chiến dịch Anaconda lại là một trong các hoạt động mật của ISA tại Afghanistan được công khai. Chiến dịch Anaconda nêu bật vai trò của ISA trong không gian chiến trường. Trong trận chiến Takur Ghar, các điệp viên ISA đã tiến hành nhiều hoạt động Sigint, đánh chặn hệ thống liên lạc của Al Qaeda và cung cấp cho các lực lượng Đồng Minh. Trên thực tế các hoạt động tình báo tín hiệu của ISA đã cứu sống 100 binh sĩ Mỹ thuộc các sư đoàn Sơn cước số 10 và Không vận 101.
Dưới sự bảo trợ của Nhóm hoạt động đặc biệt chung 20, ISA đã giúp theo dõi và định vị chính xác Saddam Hussein. Trước khi Saddam bị bắt, hơn 40 thành viên trong gia đình ông đã bị bắt và thẩm vấn để xác định những nơi có thể có mặt Saddam. ISA đã đánh chặn liên lạc từ một thành viên trong gia đình Hussein. Tiếp đó, Đặc nhiệm 121 đã đột kích một nông trại nhỏ ở miền nông thôn Iraq. Lúc đầu cuộc đột kích ngỡ như thất bại cho đến khi một đặc vụ Delta đá một số mảnh vỡ làm lộ ra một cái hố và khi người này chuẩn bị lựu đạn thì Saddam thò đầu ra ngoài.
ISA cũng có vai trò trong vụ tóm cổ Pablo Escobar. Quân du kích nổi dậy ở Nicaragua chỉ là một trong vô số mối đe dọa mà Mỹ phải đối mặt. Các nghiệp đoàn ma túy trên khắp Nam Mỹ đã tạo ra sự hỗn loạn cho các lực lượng thân Mỹ, Pablo Escobar và tập đoàn ma túy của hắn ta là mục tiêu của vài cơ quan và ban ngành trong chính phủ Mỹ, bao gồm cả ISA. Mang tên mã “Centra Spike”, ISA đã hoạt động cùng với CIA và các thể chế cảnh sát địa phương để truy lùng Escobar. ISA đã ngay tức khắc chặn các đường liên lạc vô tuyến và điện thoại.
Các điệp viên Centra Spike hoạt động trên khắp Colombia cũng như các quốc gia láng giềng nơi tầm ảnh hưởng của tập đoàn Escobar trải rộng. Cuối cùng, các điệp viên đã định vị những địa điểm của một số thành viên băng đảng cùng những mục tiêu giá trị cao bao gồm Pablo Escobar. Vụ nổ súng cuối cùng kết thúc mạng sống của Escobar có thể không trực tiếp liên quan đến ISA, tuy nhiên những nỗ lực của cơ quan này đã đặt dấu chấm hết cho cuộc đời của “bố già” này.
Theo CAND