Việt Nam và Lào là hai nước láng giềng thân thiết, núi liền núi, sông liền sông, tương đồng văn hóa, giàu lòng nhân ái, bang giao hữu nghị, gắn bó lâu đời suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của hai dân tộc.
Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn
Từ khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương (sau này là Đảng Cộng sản Việt Nam) và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, mối quan hệ keo sơn đó đã phát triển mạnh mẽ lên tầm cao mới, trở thành nhân tố quan trọng bảo đảm cho sự thành công của cách mạng mỗi nước.
Chặng đường 60 năm vẻ vang của quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào
Cùng cháy bỏng khát vọng độc lập, tự do, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch Kaysone Phomvihane và Chủ tịch Suphanouvong cùng các nhà lãnh đạo cách mạng tiền bối của hai nước đã chung tay gây dựng, gìn giữ và dày công vun đắp cho tình hữu nghị vĩ đại, đoàn kết gắn bó chặt chẽ và liên minh chiến đấu của cách mạng hai nước. Trong suốt những năm tháng kháng chiến chống thực dân, liên quân Việt-Lào chung chiến hào, vượt qua bao gian khổ để đưa sự nghiệp kháng chiến của cả hai nước đi đến thắng lợi với đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 chấn động địa cầu.
Cách đây 60 năm, trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống chủ nghĩa đế quốc của nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào vô cùng ác liệt, nhất là sau khi Hiệp định Genève năm 1962 về Lào được ký kết - một thắng lợi có ý nghĩa chiến lược đối với cách mạng hai nước, Việt Nam và Lào chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao vào ngày 5/9/1962. Đây là sự kiện trọng đại, mở ra một chương mới trong quan hệ hai nước, khẳng định sự gắn bó vận mệnh của hai dân tộc trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Trong những năm tháng khó khăn, gian khổ nhất, quân đội và nhân dân Việt Nam-Lào đã dành cho nhau sự chia sẻ sâu sắc và to lớn về vật chất lẫn tinh thần, “hạt muối cắn đôi, cọng rau bẻ nửa” để viết tiếp bản anh hùng ca bất tử về tình đoàn kết chiến đấu. Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đã cử hàng vạn cán bộ, chiến sĩ sang phối hợp, giúp đỡ và sát cánh chiến đấu cùng quân đội và nhân dân Lào. Cũng với tình cảm đặc biệt, Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào đã hết lòng hết sức hỗ trợ Việt Nam xây dựng “Đường Hồ Chí Minh”, “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”… Sự giúp đỡ lẫn nhau vô cùng to lớn và cao đẹp đó đã trở thành sức mạnh vô song, đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của mỗi nước đi đến thắng lợi hoàn toàn vào năm 1975.
Tổng Bí thư Lê Duẩn và Tổng Bí thư Kaysone Phomvihane ký Tuyên bố chung Việt Nam-Lào ngày 18/7/1977.
Sau khi hòa bình lập lại, hai nước đã ký kết Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác vào ngày 18/7/1977, là cơ sở chính trị, pháp lý quan trọng để hai bên không ngừng củng cố và phát triển toàn diện quan hệ Việt Nam-Lào trong thời kỳ xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Đây là một dấu mốc vô cùng quan trọng đối với cách mạng hai nước, khẳng định trên nền tảng vững chắc của tình đoàn kết và hữu nghị không gì lay chuyển được giữa nhân dân hai nước, tình đồng chí vĩ đại giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào được tôi luyện qua hàng chục năm sát cánh chiến đấu giành độc lập, tự do. Hai nước Việt Nam và Lào nguyện hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau với tình cảm vô tư, trong sáng để cùng nhau bảo vệ độc lập, hòa bình và phát triển kinh tế-xã hội.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, công cuộc phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế của mỗi nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, trong đó quan hệ Việt Nam-Lào không ngừng phát triển toàn diện và ngày càng đi vào chiều sâu. Quan hệ chính trị giữa hai Đảng và hai nước ngày càng gắn bó, tin cậy, là nền tảng vững chắc định hướng cho hợp tác hai nước trên tất cả các lĩnh vực. Tiếp xúc, gặp gỡ giữa lãnh đạo Đảng, Nhà nước và địa phương hai nước được duy trì thường xuyên. Hoạt động của Ủy ban liên Chính phủ Việt Nam-Lào ngày càng thực chất và hiệu quả. Giao lưu giữa các bộ, ban, ngành, địa phương, tổ chức xã hội và các tầng lớp nhân dân của hai nước ngày càng sôi động, phong phú. Nhiều dự án, công trình hợp tác mang đậm dấu ấn của tình hữu nghị thủy chung, quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào đã và đang phát huy hiệu quả. Điển hình như, công trình Nhà Quốc hội mới của Lào khánh thành vào năm 2021 - quà tặng của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam dành cho Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào, là một trong những biểu tượng có nhiều ý nghĩa của quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào trong thời kỳ đổi mới.
Hợp tác quốc phòng, an ninh là một trong những trụ cột quan trọng của quan hệ Việt Nam-Lào. Hai nước phối hợp chặt chẽ và hỗ trợ lẫn nhau giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự và an toàn xã hội ở mỗi nước, nhất là phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia, củng cố vững chắc đường biên giới giữa hai nước hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Nhờ đó, tăng cường giao lưu, gắn bó, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội ở các địa phương biên giới giữa hai nước.
Hợp tác đầu tư cũng phát triển vượt bậc. Đến nay, Việt Nam đã đầu tư 214 dự án tại Lào với tổng số vốn đạt 5,33 tỷ USD, đứng thứ 3 trong số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Lào. Các dự án của Việt Nam tại Lào đang phát huy hiệu quả trong nhiều lĩnh vực, như thủy điện, kết cấu hạ tầng, hàng không, tài chính, ngân hàng, viễn thông, nông nghiệp…, không chỉ góp phần tăng cường kết nối kinh tế hai nước, mà còn đóng góp vào phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế của mỗi nước. Nổi bật là, dự án Cảng quốc tế Việt Nam-Lào tại Vũng Áng (Hà Tĩnh) cùng với các dự án hợp tác nghiên cứu, xây dựng các tuyến đường bộ, đường sắt qua biên giới hai nước theo trục Đông-Tây sẽ góp phần quan trọng giúp Lào khai thác vận tải biển và tiếp cận các tuyến hàng hải quốc tế để thực hiện mục tiêu chiến lược của Lào là phấn đấu trở thành một trung tâm hậu cần, tiếp vận (logistics) ở tiểu vùng sông Mê Công và khu vực Đông Nam Á.
Hợp tác giáo dục-đào tạo và phát triển nguồn nhân lực luôn được Đảng, Nhà nước của hai nước dành sự quan tâm đặc biệt. Hàng chục nghìn sinh viên Lào đã và đang học tập, nghiên cứu tại Việt Nam, đồng thời Lào cũng đào tạo hàng nghìn sinh viên Việt Nam. Đội ngũ cán bộ này, trong đó nhiều người đã trở thành những nhà lãnh đạo, quản lý và nhà nghiên cứu xuất sắc, đã đóng góp quan trọng vào công cuộc phát triển của mỗi nước.
Hợp tác địa phương, khoa học-công nghệ, môi trường, y tế, văn hóa-xã hội thu nhiều kết quả tích cực. Hợp tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19 giữa hai nước trong hơn hai năm qua một lần nữa minh chứng trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Việt Nam và Lào cũng luôn kề vai, sát cánh và hỗ trợ lẫn nhau. Dù còn nhiều khó khăn, nhưng hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước đã nỗ lực hết sức mình dành cho nhau sự hỗ trợ kịp thời, hiệu quả về nguồn lực, trang thiết bị y tế và vaccine để phục vụ phòng, chống dịch bệnh Covid-19.
Không chỉ hợp tác toàn diện và ngày càng đi vào chiều sâu trong khuôn khổ song phương, tình hữu nghị và đoàn kết đặc biệt giữa Việt Nam và Lào còn được khẳng định trên bình diện đa phương. Hai nước chia sẻ nhiều điểm đồng, ủng hộ lẫn nhau và phối hợp chặt chẽ tại các diễn đàn quốc tế, như Liên hợp quốc, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn Hợp tác Á-Âu (ASEM), Tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS), Tam giác phát triển Campuchia-Lào-Việt Nam (CLV), Hợp tác bốn nước Campuchia-Lào-Myanmar-Việt Nam (CLMV), Chiến lược hợp tác kinh tế ba dòng sông Ayawady-Chao Phraya-Mê Công (ACMECS),…
Nhìn lại chặng đường lịch sử hào hùng 60 năm qua, Việt Nam và Lào luôn tự hào về mối quan hệ đặc biệt, vừa là đồng chí, vừa là anh em giữa hai nước. Đó là mối quan hệ do Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Chủ tịch Kaysone Phomvihane, Chủ tịch Suphanouvong đặt nền móng và được các thế hệ lãnh đạo Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước dày công vun đắp. Đó là mối quan hệ xuất phát từ tình đồng chí thủy chung giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào luôn sát cánh bên nhau trong đấu tranh giành độc lập dân tộc trước đây và sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước ngày nay. Đó cũng là mối quan hệ đáp ứng nguyện vọng chung tha thiết của nhân dân hai nước về tình đoàn kết, tương trợ lẫn nhau trên tinh thần nhân văn “giúp bạn là tự giúp mình”, hợp tác hữu nghị, bình đẳng và cùng có lợi. Mối quan hệ thủy chung, trong sáng giữa hai Đảng và hai nước đã trở thành mối quan hệ mẫu mực, hiếm có trên thế giới như Chủ tịch Kaysone Phomvihane đã khẳng định: “Trong lịch sử cách mạng thế giới cũng đã có những tấm gương sáng chói về tinh thần quốc tế vô sản, nhưng chưa ở đâu và chưa bao giờ có sự đoàn kết, liên minh chiến đấu đặc biệt, lâu dài, toàn diện đến như vậy”.
Kỷ niệm 60 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao (ngày 5/9/1962 - 5/9/2022) và 45 năm Ngày ký kết Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Việt Nam-Lào (ngày 18/7/1977 - 18/7/2022), nhiều hoạt động trang trọng, có ý nghĩa thiết thực với nội dung sâu sắc và có sức lan tỏa sâu rộng đã, đang và sẽ được tổ chức ở cả hai nước trong Năm “Đoàn kết Hữu nghị Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam 2022”. Những hoạt động này không chỉ tôn vinh sự vĩ đại của quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, mà còn tri ân công lao to lớn của các thế hệ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân và dân hai nước đã gây dựng, gìn giữ và phát triển quan hệ Việt Nam-Lào trong suốt nhiều thập niên qua, đồng thời, góp phần quan trọng tăng cường tuyên truyền sâu rộng để các tầng lớp nhân dân hai nước, nhất là thế hệ trẻ, hiểu sâu sắc hơn về mối quan hệ thủy chung, trong sáng giữa hai Đảng, hai nước, từ đó tiếp thêm niềm tự hào và quyết tâm bảo vệ, gìn giữ và phát triển mối quan hệ thiêng liêng và vô giá này.
Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì lễ đón Thủ tướng Lào Phankham Viphavanh thăm chính thức Việt Nam, tháng 1/2022.
Nâng tầm hợp tác toàn diện, cùng xây dựng tương lai tươi sáng của hai dân tộc Việt Nam và Lào
Quan hệ Việt Nam-Lào luôn có vị trí ưu tiên hàng đầu trong đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam luôn nhận thức sâu sắc rằng, mỗi thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất trước đây cũng như trong công cuộc đổi mới ngày nay của Việt Nam đều gắn liền với sự đoàn kết, ủng hộ và giúp đỡ chí nghĩa, chí tình của Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào. Trong trái tim của mỗi cán bộ, đảng viên và người dân Việt Nam mãi mãi khắc sâu lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Việt-Lào hai nước chúng ta/Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long”.
Là đồng chí, anh em thân thiết, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam hết sức vui mừng trước những thành tựu to lớn mà Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào đã đạt được trong công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế-xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống nhân dân và hội nhập quốc tế. Việt Nam chân thành mong muốn nhân dân các dân tộc Lào dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào sẽ xây dựng thành công một nước Lào hòa bình, độc lập, thống nhất và phát triển thịnh vượng, có quan hệ đối ngoại rộng mở, có vị thế không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế.
Thế giới và khu vực đang trải qua những biến động sâu sắc và phức tạp. Hai nước Việt Nam và Lào dù còn nhiều khó khăn, thử thách ở phía trước, nhưng cũng đứng trước nhiều vận hội phát triển mới. Việt Nam đang nỗ lực với quyết tâm cao nhất thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, phấn đấu trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045. Lào đang ra sức triển khai Nghị quyết Đại hội XI của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào với mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030 và triển khai chiến lược phát triển xanh, xây dựng thành công đất nước Lào hòa bình, độc lập, dân chủ, thống nhất và phồn vinh.
Muốn vậy, cần không ngừng củng cố, làm sâu sắc hơn nữa trụ cột quan hệ chính trị Việt Nam-Lào để tiếp tục giữ vai trò nòng cốt, định hướng tổng thể quan hệ hợp tác. Hai nước cần củng cố vững chắc, phát huy hiệu quả các cơ chế hợp tác song phương trên các kênh Đảng, Nhà nước, địa phương và nhân dân nhằm tăng cường hơn nữa sự tin cậy chính trị-chiến lược. Tiếp tục thúc đẩy hợp tác quốc phòng, an ninh ngày càng chặt chẽ để góp phần quan trọng giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước.
Mở rộng và nâng tầm hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư, kết nối kinh tế, cơ sở hạ tầng nhằm củng cố nền tảng lâu dài, vững chắc cho quan hệ hai nước. Cần tiếp tục phát huy hiệu quả cơ chế Ủy ban liên Chính phủ Việt Nam-Lào, triển khai nghiêm túc các thỏa thuận cấp cao, các hiệp định đã ký kết trên tinh thần “đã làm đến đâu thì phải chắc tới đó”. Tiếp tục huy động và sử dụng hiệu quả nội lực của hai nước và các nguồn lực bên ngoài cho hợp tác và kết nối kinh tế Việt Nam-Lào cả về hạ tầng cứng và hạ tầng mềm. Trong đó, ưu tiên cao cho tăng cường kết nối hạ tầng đường bộ, đường sắt, năng lượng, viễn thông, kinh tế số, tài chính-ngân hàng,... Có như vậy, vừa thúc đẩy kết nối kinh tế giữa hai nước, vừa góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế của mỗi nước.
Bên cạnh đó, cần tiếp tục mở rộng và làm sâu sắc hơn nữa hợp tác giáo dục-đào tạo, y tế, du lịch, khoa học-công nghệ, môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu,... theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, góp phần tăng cường bổ sung lợi thế cho nhau trong phát triển kinh tế-xã hội của hai nước.
Một điều rất quan trọng là hai nước cần tiếp tục coi trọng quán triệt sâu sắc, giáo dục nâng cao hơn nữa nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là thế hệ trẻ, về tầm quan trọng chiến lược của tình hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam-Lào đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của mỗi nước.
Để tăng cường hợp tác toàn diện, đưa quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào lên tầm cao mới trong giai đoạn phát triển mới của hai nước, Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước cần đặc biệt quan tâm đổi mới, hoàn thiện các cơ chế, chính sách và tổ chức chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các thỏa thuận, mục tiêu chiến lược. Muốn vậy, cần tiếp tục thúc đẩy đổi mới tư duy hợp tác để có những định hướng, biện pháp mang tính đột phá, tạo nên những động lực mới cho phát triển toàn diện, bền vững và hiệu quả quan hệ Việt Nam-Lào để đáp ứng các yêu cầu mà sự nghiệp cách mạng của mỗi nước đặt ra trong tình hình mới.
Dưới sự lãnh đạo của hai Đảng, sự chỉ đạo, quản lý và điều hành của hai Chính phủ, Bộ Ngoại giao hai nước Việt Nam và Lào phát huy truyền thống hợp tác tốt đẹp, tăng cường trao đổi và phối hợp chặt chẽ, nỗ lực hết sức mình cùng các bộ, ban, ngành, địa phương và nhân dân hai nước đóng góp vào phát triển quan hệ Việt Nam-Lào trên tất cả các kênh đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân. Hai Bộ Ngoại giao tiếp tục triển khai có hiệu quả Thỏa thuận hợp tác giữa hai Bộ giai đoạn 2021-2025; trong đó, chú trọng đẩy mạnh phối hợp triển khai ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa, giữ vững đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển giữa hai nước, tăng cường hợp tác đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ ngoại giao, phối hợp chặt chẽ tại các cơ chế, diễn đàn quốc tế, chia sẻ kinh nghiệm về nghiên cứu đối ngoại, truyền thông đối ngoại, lãnh sự, bảo hộ công dân,...
Mối quan hệ đoàn kết, gắn bó đặc biệt giữa hai nước, hai dân tộc Việt Nam-Lào được các thế hệ lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước dày công gây dựng, gìn giữ và vun đắp, được tôi luyện qua nhiều thử thách khắc nghiệt, không ngừng phát triển toàn diện và sâu rộng, trở thành tài sản chung vô giá của hai dân tộc, là quy luật sống còn và là nhân tố bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp cách mạng hai nước. Trong giai đoạn phát triển mới của hai nước, tình hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam-Lào càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết đối với cả hai nước. Dù khó khăn, gian khổ đến đâu, hai nước Việt Nam và Lào cũng quyết tâm làm hết sức mình “giữ gìn và bảo vệ mối quan hệ Việt - Lào như giữ gìn con ngươi của mắt mình”(1) để mối quan hệ thiêng liêng Việt Nam-Lào mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững, vì sự phát triển phồn vinh của hai nước, đóng góp tích cực vào hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.
…………………….
(1) Phát biểu của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng tại Lễ kỷ niệm 55 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao và 40 năm ngày ký kết Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Việt Nam-Lào (18/7/1977 – 18/7/2017)
Theo NDĐT