Luật Biển Việt Nam đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 3,
thông qua. Luật sẽ có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1-1-2013.Thể hiện chủ
quyền của Việt Nam về biểnCó những ý kiến đóng góp sửa đổi trước khi Luật Biển Việt
Nam được thông qua, đáng chú ý như sau: bổ sung cụm từ “toàn vẹn và đầy đủ” khi
quy định về chủ quyền của Việt Nam đối với lãnh hải, vùng trời, vùng nước và
lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải phù hợp với Công ước của Liên hiệp quốc về
Luật Biển (khoản 1 Điều 12). Tiếp thu ý kiến này, khoản 1 Điều 12 đã thể hiện
như sau: “Nhà nước thực hiện chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn đối với lãnh hải và
vùng trời, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải phù hợp với Công ước
của Liên hiệp quốc về Luật Biển năm 1982”. Điều này cũng phù hợp với tinh thần
Tuyên bố của Chính phủ về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa Việt Nam năm 1977”.Dựa trên Công ước của Liên hiệp quốc về Luật Biển, nhiều đại
biểu đề nghị sử dụng thuật ngữ “tranh chấp” thay cho “bất đồng” trong Điều 4 về
nguyên tắc quản lý và bảo vệ biển. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tiếp thu và
thay cụm từ “giải quyết các bất đồng” bằng “giải quyết các tranh chấp” tại
khoản 3 Điều 4. Điều 3 của luật ghi nhận rõ “biện pháp hòa bình” là nguyên
tắc để giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia. Theo báo cáo giải trình, việc
ghi nhận nguyên tắc này hoàn toàn không loại trừ quyền phòng vệ chính đáng của
nước ta, bởi vì ngay trong Hiến chương Liên hiệp quốc cũng thừa nhận quyền tự
vệ chính đáng của cá nhân hay tập thể khi thành viên của Liên hiệp quốc bị tấn
công vũ trang. Trong khi đó, khoản 1 Điều 5 quy định việc thực hiện các biện
pháp cần thiết (bao gồm cả quyền tự vệ chính đáng) nhằm bảo vệ chủ quyền, quyền
chủ quyền, quyền tài phán của quốc gia trên các vùng biển, đảo và quần đảo đã
hàm ý Việt Nam có quyền sử dụng các biện pháp vũ lực, phòng vệ chính đáng khi
cần thiết.Hải quân Việt
Nam luôn sẵn sàngLuật Biển thừa nhận quyền qua lại của tàu thuyền nước ngoài
trong lãnh hải Việt Nam nhưng quy định rất cụ thể các hành vi bị coi là gây
phương hại đến hòa bình, quốc phòng, an ninh của Việt Nam: a) Đe dọa hoặc sử
dụng vũ lực chống lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. b)
Đe dọa hoặc sử dụng vũ lực chống lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
của quốc gia khác; thực hiện các hành vi trái với các nguyên tắc cơ bản của
pháp luật quốc tế được quy định trong Hiến chương Liên hiệp quốc. c) Luyện tập
hay diễn tập với bất kỳ kiểu, loại vũ khí nào, dưới bất kỳ hình thức nào. d)
Thu thập thông tin gây thiệt hại cho quốc phòng, an ninh của Việt Nam. đ) Tuyên
truyền nhằm gây hại đến quốc phòng, an ninh của Việt Nam. e) Phóng đi, tiếp
nhận hay xếp phương tiện bay lên tàu thuyền. g) Phóng đi, tiếp nhận hay xếp
phương tiện quân sự lên tàu thuyền. h) Bốc, dỡ hàng hóa, tiền bạc hay đưa người
lên xuống tàu thuyền trái với quy định của pháp luật Việt Nam về hải quan, thuế,
y tế hoặc xuất nhập cảnh. i) Cố ý gây ô nhiễm nghiêm trọng môi trường biển. k)
Đánh bắt hải sản trái phép. l) Nghiên cứu, điều tra, thăm dò trái phép. m) Làm
ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thống thông tin liên lạc hoặc của thiết bị hay
công trình khác của Việt Nam. n) Tiến hành hoạt động khác không trực tiếp liên
quan đến việc đi qua.Theo Luật Biển, lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển có
quyền truy đuổi tàu thuyền nước ngoài vi phạm các quy định của pháp luật Việt
Nam nếu các tàu thuyền này đang ở trong nội thủy, lãnh hải và vùng tiếp giáp
lãnh hải Việt Nam. Quyền truy đuổi được tiến hành sau khi lực lượng tuần tra,
kiểm soát trên biển đã phát tín hiệu yêu cầu tàu thuyền vi phạm hay có dấu hiệu
vi phạm pháp luật dừng lại để tiến hành kiểm tra nhưng tàu thuyền đó không chấp
hành. Việc truy đuổi có thể được tiếp tục ở ngoài ranh giới của lãnh hải hay
vùng tiếp giáp lãnh hải Việt Nam nếu được tiến hành liên tục, không ngắt quãng.
Quyền truy đuổi cũng được áp dụng đối với hành vi vi phạm quyền chủ quyền, quyền
tài phán quốc gia của Việt Nam, vi phạm trong phạm vi vành đai an toàn và trên
các đảo nhân tạo, thiết bị, công trình trên biển trong vùng đặc quyền kinh tế
và thềm lục địa Việt Nam.Những nội dung
chính của Luật Biển Việt NamLuật Biển Việt Nam gồm có 7 chương, 55 điều, có hiệu lực thi
hành từ ngày 1-1-2013. Chương 1 gồm các quy định chung về phạm vi điều chỉnh,
định nghĩa. Chương 2 quy định về vùng biển Việt Nam với các quy định về đường
cơ sở, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế,
thềm lục địa, đảo, quần đảo... Chương 3 quy định về hoạt động trong vùng biển
Việt Nam, trong đó có các quy định: đi qua không gây hại trong lãnh hải, tuyến
hàng hải và phân luồng giao thông trong lãnh hải phục vụ cho việc đi qua không
gây hại, vùng cấm và khu vực hạn chế hoạt động trong lãnh hải, tàu quân sự và
tàu thuyền công vụ của nước ngoài đến Việt Nam, trách nhiệm của tàu quân sự và
tàu thuyền công vụ của nước ngoài trong vùng biển Việt Nam, hoạt động của tàu
ngầm và các phương tiện đi ngầm khác của nước ngoài trong nội thủy, lãnh hải
Việt Nam, quyền tài phán hình sự và dân sự đối với tàu thuyền nước ngoài, quyền
truy đuổi tàu thuyền nước ngoài... Chương 4 của Luật Biển Việt Nam dành cho phát triển kinh tế
biển, với các điều khoản về nguyên tắc phát triển kinh tế biển, các ngành kinh
tế biển, quy hoạch phát triển kinh tế biển, xây dựng và phát triển kinh tế
biển, khuyến khích, ưu đãi đầu tư phát triển kinh tế trên các đảo và hoạt động
trên biển. Chương 5 của luật quy định về tuần tra, kiểm soát trên biển với các
điều khoản về lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển, nhiệm vụ và phạm vi
trách nhiệm tuần tra, kiểm soát trên biển, cờ, sắc phục và phù hiệu. Luật Biển Việt Nam cũng dành một chương (chương 6) để quy
định về xử lý vi phạm. Chương này bao gồm các điều khoản về dẫn giải và địa
điểm xử lý vi phạm, biện pháp ngăn chặn, thông báo cho Bộ Ngoại giao và xử lý
vi phạm. Chương cuối cùng của Luật Biển Việt Nam quy định về điều khoản thi
hành.
Trong ảnh là
tàu tiếp tế Chunji (dành cho quân sự) của Hàn Quốc đến thăm Việt Nam Luật Biển Việt
Nam quy định tàu quân sự nước ngoài khi thực hiện quyền đi qua không gây hại
trong lãnh hải Việt Nam, thì thông báo trước cho cơ quan có thẩm quyền của Việt
Nam. Mục đích của việc thông báo chủ yếu là nhằm bảo đảm an toàn hàng hải cho
tàu thuyền di chuyển trong lãnh hải Việt Nam và cũng tạo điều kiện thuận lợi
cho các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam trong việc quản lý, theo dõi các
vùng biển của ta. Quy định việc thông báo trước cũng đã được một số quốc gia
khác áp dụng.MINH CHÂU