Từ tàu “không số” đến tàu ngầm Kilô - Bài 3

Cập nhật: 06-05-2015 | 11:09:43

Bài 3: Vì miền Nam ruột thịt

Cùng với các lực lượng tham gia chống chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân, hải quân của đế quốc Mỹ, làm nên một “Điện Biên Phủ trên không”, Hải quân nhân dân Việt Nam còn tích cực vượt qua mọi khó khăn, gian khổ trong thực hiện nhiệm vụ vận chuyển, chi viện cho chiến trường miền Nam, tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, trực tiếp giải phóng quần đảo Trường Sa và các đảo ven bờ…

Song Tử Tây

Bộ đội hải quân giải phóng đảo Song Tử Tây ngày 14-4-1975. Ảnh: Tư liệu

Âm vang từ những chuyến tàu “không số”

Tháng 10-1963, Đoàn 759 chuyển về trực thuộc Quân chủng Hải quân và tháng 1-1964 đổi tên là Đoàn 125 Hải quân, hay còn gọi là đoàn tàu “không số”. Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Hải quân đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, động viên cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị phát huy truyền thống, thành tích mở đường vận tải chiến lược trên biển, tiếp tục nêu cao tinh thần “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”, “Vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc” sẵn sàng vượt qua mọi hy sinh, gian khổ, đoàn kết chủ động khắc phục khó khăn, phát huy trí tuệ tập thể, ý chí chiến đấu anh dũng, mưu trí, sáng tạo, vượt qua các tuyến bao vây, phong tỏa gắt gao của địch để vận chuyển vũ khí chi viện cho chiến trường Nam bộ và Nam Trung bộ, nơi xa nhất và khó khăn gian khổ nhất ở miền Nam. Tính từ tháng 10-1962 đến tháng 2-1965, đơn vị đã thực hiện hơn 80 chuyến, chở được hơn 4.400 tấn vũ khí chi viện cho chiến trường.

đảo Sơn Ca

Bộ đội hải quân kéo cờ giải phóng trên đảo
Sơn Ca: Ảnh: Tư liệu

Từ cuối năm 1963, đơn vị được bổ sung thêm các phương tiện vận chuyển vỏ sắt với trọng tải 50 - 100 tấn; kết hợp sử dụng nhiều loại tàu vỏ sắt, vỏ gỗ, trọng tải 20 - 100 tấn làm nhiệm vụ vận chuyển chi viện cho chiến trường. Sau sự kiện tàu C143 bị lộ và tổn thất tại Vũng Rô tháng 2-1965, địch tăng cường kiểm soát, ngăn chặn, phong tỏa gắt gao và đánh phá ác liệt các tuyến vận tải chi viện của ta. Chúng theo dõi, giám sát, khống chế các tàu của ta trong suốt hành trình khi còn đang ở vùng biển quốc tế, thậm chí từ khi xuất phát ở Hải Nam Trung Quốc. Nhiều chuyến tàu ra đi phải quay về hoặc gặp địch phải chiến đấu và hy sinh. Song, những khó khăn thử thách ác liệt ấy không thể ngăn cản được những chuyến đi của các con tàu và cán bộ, chiến sĩ đoàn tàu “không số” vận tải chi viện chiến trường. Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân chủng và các cấp ủy, chỉ huy của đoàn tàu “không số” đã cùng với cán bộ, chiến sĩ của đoàn luôn nêu cao ý chí chiến đấu, sự sáng tạo, mưu trí, dũng cảm, kiên cường đấu trí với các âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, kiên trì tìm ra các phương án, tuyến đi mới, cải dạng tàu thuyền, sẵn sàng đương đầu với những thử thách khốc liệt, vô cùng hiểm nguy đang rình rập ở phía trước, chấp nhận hy sinh vì sự nghiệp cách mạng, lập nên nhiều chiến công xuất sắc, đặc biệt xuất sắc, có những chiến công trở thành huyền thoại.

Sáng tạo cách đánh đặc công nước

Cùng với nhiệm vụ chi viện cho chiến trường miền Nam, Hải quân nhân dân Việt Nam còn trực tiếp tham gia chiến đấu và lập công xuất sắc trên chiến trường Cửa Việt - Đông Hà với cách đánh đặc công hải quân. Cuối năm 1961, Cục Hải quân đề nghị Bộ Quốc phòng cho phép tổ chức lực lượng đặc công hải quân để huấn luyện, tìm phương pháp đánh tàu mặt nước của địch. Ngày 23-10-1963, Đội 1 đặc công hải quân được thành lập làm nhiệm vụ nghiên cứu tình hình hoạt động của tàu thuyền địch, nghiên cứu phương pháp tổ chức, xây dựng lực lượng và huấn luyện, thử nghiệm cách đánh tàu mặt nước của địch… để tham mưu cho cấp trên tổ chức lực lượng đặc công hải quân chi viện cho miền Nam tiến công địch trên chiến trường sông biển.

Đầu năm 1964, Đoàn 8 đặc công hải quân được thành lập, biên chế thành 3 đội huấn luyện kỹ thuật đánh tàu địch bằng 3 cách: Đánh áp mạn, đánh bằng thủy lôi và đánh bằng hỏa lực bắn thẳng. Ngày 13-4-1966, Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Đoàn huấn luyện trinh sát đặc công, lấy phiên hiệu là Đoàn 126 thuộc Bộ Tư lệnh Hải quân làm nhiệm vụ “Tổ chức, xây dựng huấn luyện lực lượng đặc công nước bổ sung cho các chiến trường miền Nam và trực tiếp chiến đấu trên chiến trường Cửa Việt - Đông Hà”. Rạng sáng ngày 31-3-1967, tổ chiến đấu của Đội 1 đặc công hải quân thực hiện trận đánh đầu tiên, đánh chìm chiếc tàu cuốc 70 tấn của quân Nam Triều Tiên, là chiếc tàu đầu tiên của đế quốc Mỹ và tay sai bị bộ đội đặc công hải quân đánh chìm tại cửa Việt. Từ tháng 4 đến tháng 9-1967, Đội 1 Đoàn 126 đặc công hải quân đã đánh 6 trận, đánh chìm 10 tàu, làm bị thương 2 chiếc tàu khác và phá hủy một số phương tiện chiến tranh, loại khỏi vòng chiến đấu một bộ phận sinh lực của địch. Năm 1968, Đoàn 126 đặc công hải quân đã đánh chìm 90 chiếc tàu thuyền của địch trên sông Cửa Việt, ngăn chặn và làm tê liệt hoạt động vận chuyển đường thủy của chúng ở tuyến Cửa Việt - Đông Hà. Từ cuối năm 1968 đến năm 1972, Đoàn tiếp tục vừa xây dựng lực lượng vừa tổ chức đánh địch, gây cho chúng nhiều thiệt hại.

Giải phóng Trường Sa

Sau khi Hiệp định Paris được ký kết (tháng 1-1973), Quân chủng Hải quân tiếp tục củng cố, nâng cao chất lượng xây dựng, tổ chức huấn luyện bảo đảm sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu và vận chuyển chi viện chiến trường. Đầu năm 1975, Bộ Tổng Tham mưu giao nhiệm vụ cho quân chủng đẩy mạnh chiến đấu độc lập và hiệp đồng cùng các lực lượng khác bảo vệ miền Bắc, nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu ở phía Nam Quân khu 4 và bảo vệ tuyến giao thông vận tải đường biển, bảo đảm vững chắc sự chi viện của miền Bắc vào miền Nam; đồng thời đẩy mạnh tham gia tác chiến và chi viện trực tiếp cho miền Nam. Nắm chắc tình hình, chuẩn bị sẵn sàng huy động lực lượng cao nhất khi thời cơ đến...

Chấp hành chỉ thị của Thường trực Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tham mưu, ngày 5-4-1975, Quân chủng triển khai thực hiện nhiệm vụ tổ chức lực lượng phối hợp với một bộ phận đơn vị thuộc Quân khu 5 tiến công giải phóng các đảo do quân ngụy Sài Gòn đóng giữ trên quần đảo Trường Sa. Ngày 14-4, ta giải phóng đảo Song Tử Tây, tiếp theo là các đảo Sơn Ca (25- 4), Nam Yết (27-4), Sinh Tồn (28-4) và Trường Sa (29-4), kết thúc nhiệm vụ chiến đấu đặc biệt quan trọng cấp trên giao cho hải quân. Sau khi giải phóng Trường Sa, lực lượng đặc công và tàu thuyền của hải quân tiếp tục tiến công giải phóng đảo Cù Lao Thu và một số đảo ven bờ khác. Ngày 30-4-1975, chiến dịch Hồ Chí Minh giành thắng lợi, cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 toàn thắng, giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc.

Bài cuối: Bảo vệ, giữ vững chủ quyền biển đảo  

Từ năm 1962 đến năm 1972, Đoàn tàu “không số” đã thực hiện gần 170 lần chuyến tàu, thành công 65,06% số chuyến, trực tiếp chi viện hơn 5.700 tấn vũ khí và hàng trăm cán bộ tăng cường cho chiến trường Nam bộ và Nam Trung bộ. Đồng thời đã vận tải hàng trăm ngàn tấn hàng hóa, vũ khí tạo chân hàng cho tuyến chi viện 15 chiến lược 559 vận chuyển vào chiến trường. Vận chuyển phục vụ chuyển tải bí mật gần 700 tấn hàng hóa vũ khí cho các tàu của Đoàn 371 (Quân khu 9) ở trên biển. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, các tàu của Đoàn 125 đã thực hiện 173 lần chuyến, chở 17.475 lượt người và 8.721 tấn vũ khí, hàng quân sự vào chiến trường miền Nam và chở lực lượng tiến công giải phóng quần đảo Trường Sa, góp phần làm nên đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.


P.V 
(Nguồn: Cục Chính trị, Bộ Tư lệnh Hải quân)

Chia sẻ bài viết

LƯU Ý: BDO sẽ biên tập ý kiến của bạn đọc trước khi xuất bản. BDO hoan nghênh những ý kiến khách quan, có tính xây dựng và có quyền không sử dụng những ý kiến cực đoan không phù hợp. Vui lòng gõ tiếng việt có dấu, cám ơn sự đóng góp của bạn đọc.

Gửi file đính kèm không quá 10MB Đính kèm File
intNumViewTotal=1516
Quay lên trên