Chuyến hành trình qua đất Phật đó được hòa thượng Nhẫn Tế ghi chép lại trong một cuốn sổ, có tên là “Nhật ký tham bái Ấn Độ, Tây Tạng”. Gần đây, cuốn nhật ký đã được các môn đồ của ông in thành sách với tựa đề “Sự tích Tây du Phật quốc”.
Chân dung “tiểu Đường Tăng”
Thiền sư Minh Tịnh tên thật là Nguyễn Tấn Tạo (tên khác là ông Mười Tạo). Ông sinh năm 1888 tại thôn An Thạnh, Thủ Dầu Một. Vốn là một trí thức và là công chức ngành y tế thời Pháp, ông rất am hiểu về văn hóa Đông và Tây học. Năm 16 tuổi, ông nghiên cứu về Phật giáo. Sau đó xuất gia với hòa thượng Ấn Thành - Từ Thiện và lấy pháp danh là Chơn Phổ - Nhẫn Tế thuộc dòng Lâm Tế Chúc Thánh đời thứ 40.
Cổng chùa Tây Tạng
Theo cuốn Lịch sử Bình Dương, thiền sư Minh Tịnh là người yêu nước và có nhiều cống hiến cho cách mạng. Vào năm 1945, ông được cử làm Chủ tịch Hội Phật giáo Cứu quốc tỉnh Thủ Dầu Một. Tháng 6-1946, ông trở thành thành viên Mặt trận Việt Minh tỉnh Thủ Dầu Một tại khu Thuận An Hòa.
Hòa thượng Minh Tịnh còn là người có công trong phong trào chống Pháp trong giới Phật giáo. Ông còn là cha đỡ đầu của đồng chí Nguyễn Văn Thi, Liên Trung đoàn trưởng, bản doanh đóng tại xã Bình Chuẩn, Lái Thiêu, Bình Dương. Năm 1950, ông được cử làm cố vấn cho tỉnh Thủ Dầu Một. Hòa thượng Minh Tịnh từng kêu gọi giới Phật giáo dồn hết sức mình tham gia vào kháng chiến. Ông nói: “Khi nào còn chiến tranh thì một viên ngói, một viên gạch cũng không được xây chùa...”. Ngoài ra, ông còn động viên tăng sĩ, phật tử của chùa trực tiếp tham gia kháng chiến như: Nguyễn Văn Lạc, pháp danh Pháp Cự, hy sinh năm 1949; Nguyễn Văn Xinh pháp danh Thiện Hiệu, hy sinh năm 1948; Lâm Văn Thảo, pháp danh Thiện Đắc, hy sinh năm 1945...
Câu chuyện hành trình qua đất Phật
“Nhật ký tham bái Ấn Độ, Tây Tạng” là cuốn sách hiếm hoi ở Việt Nam ghi lại một chuyện hiếm hoi và thú vị về một chuyến đi với những câu chuyện ly kỳ ghi lại hành trình đi qua đất Phật Tây Tạng của thiền sư Minh Tịnh.
Bìa cuốn Sự tích Tây du Phật quốc,
tên cũ là “Nhật ký tham bái Tây Tạng”
của thiền sư Minh Tịnh
Tôi tìm đến chùa Tây Tạng và được Hòa thượng Thích Chơn Hạnh, trụ trì của chùa Tây Tạng đưa cho một cuốn “Sự tích Tây du Phật quốc” (tên gốc là “Nhật ký tham bái Ấn Độ, Tây Tạng”). Cuốn sách ghi lại hành trình dài hơn 2 năm (từ năm 1935-1937) qua đất Phật. Trong thời kỳ đó, ở nước ta, phong trào chấn hưng Phật giáo đang dấy lên mạnh mẽ. Bối cảnh đó đã thôi thúc thiền sư Minh Tịnh ra đi tìm đến xứ Phật. Ông cho rằng: Muốn chấn hưng Phật giáo phải biết cội nguồn của Phật pháp. Với ý nghĩ đó, 17 giờ ngày 17-4-1935, thiền sư xuống Sài Gòn, đến Bến Nhà Rồng, lên tàu qua xứ Phật. Trong hơn 400 trang nhật ký, thiền sư Minh Tịnh đã ghi lại khá đầy đủ, chi tiết về cuộc hành trình đến đất Phật và khoảng thời gian gần 3 năm tìm hiểu, nghiên cứu về Phật pháp, văn hóa của xứ Phật. Bằng lời văn vừa trí thức vừa bình dị, ông đã ghi lại từng chi tiết của từng địa phương mà ông đã đi qua. Ngoài ra, cuốn du ký còn thể hiện một lòng quyết tâm và ý chí mãnh liệt của thiền sư trong hành trình tới đất Phật.
Cuốn “Nhật ký tham bái Ấn Độ, Tây Tạng” được viết bằng nhiều thứ tiếng: Anh, Pháp, Hoa và tiếng Việt, ghi lại hành trình qua đất Phật. Trong đó ghi chép khá chi tiết, cụ thể và sinh động khoảng thời gian từ khi thiền sư Minh Tịnh xin giấy phép xuất dương qua Ấn Độ và khoảng thời gian hơn 2 năm sinh sống trên đất Ấn rồi trở về. Trải qua 15 ngày đêm đi tàu, vào ngày 31-4-1935, thiền sư Minh Tịnh tới Ấn Độ. Điểm đặt chân đầu tiên của ông là cảng Madras, một khu phố khá sầm uất của Ấn Độ thời bấy giờ.
Ảnh vẽ Thiền sư Minh Tịnh
Sau khi rời Madras, thiền sư tới thành Ba La Nại (Béranés). Tại đây, ông ghé thăm vườn Lộc Giã (Sarnath) xin tu tập tại đây 10 tháng. Sau đó, ông tới Boudhagaya (nơi đức Phật thành đạo) để chiêm bái và suy nghiệm về sự tu chứng của đức Phật. Từ Boudhagaya, ông tới Himalaya. Himalaya (Hy Mã Lạp Sơn), thuộc địa phận nước Nêpan, là nơi thái tử Sĩ Đạt Ta (Đức Phật) ra đời. Vùng núi Himalaya vào mùa đông là một vùng băng tuyết, ít người chịu được cái giá lạnh của vùng này. Bằng ý chí và quyết tâm, thiền sư Minh Tịnh đã thành công khi đặt chân tới nơi Đức Phật ra đời. Sau đó ông đến Lubini, nơi Đức Phật giáng sinh, đến cung Ca Tỳ La Vệ, nơi hoàng cung trước kia của thái tử Sĩ Đạt Ta.
Trong chuyến đi tới Nêpan, ông đã được chiêm bái 3 ngôi đại tháp thờ Xá Lợi Phật lớn nhất ở Nêpan. Đó là: tháp Simb-Nath, tháp Boudha-Nath, tháp Nammo-Boudha. Hầu hết Xá Lợi Phật đều được đưa về Himalaya để thờ. Trong cuộc chiến tranh Anh xâm lược Ấn Độ, một số di tích Phật giáo đã bị tàn phá. Vì thế, để bảo tồn Xá Lợi, giới lãnh đạo Phật giáo thời bay giờ quyết định đưa chúng qua Nêpan.
Khi tới Nêpan, thiền sư Minh Tịnh đã sắm lễ vật và xin với vị thượng tọa Lama, người cai quản tháp, xin được đảnh lễ Xá Lợi Phật. Ý nguyện của ông là muốn được thỉnh Xá Lợi về Việt Nam. Sau nhiều lần đảnh lễ, cảm phục trước đức độ và lòng hiếu đạo của thiền sư, vị thượng tọa quản tháp quyết định dâng cúng Xá Lợi Phật cho thiền sư mang về Việt Nam. Thiền sư Minh Tịnh hết sức xúc động. Ông ghi lại trong nhật ký của mình: “Xá Lợi có hào quang ngời chói, màu hồng bạch tốt tươi, dầu cho ngọc dồi cũng không tày. Vật vô giá quý thay!...”. Vào những năm 1930-1940, ở miền Nam Việt Nam, lần đầu tiên Xá Lợi Phật được thỉnh từ Tây Thiên do thiền sư Minh Tịnh thỉnh về. Sau 12 ngày ở Nêpan, ông quyết định qua Tây Tạng. Cùng đi với ông có vị Lama Gav Sandhen và 3 đồ đệ.
Ngày 27-2-1936, họ khởi hành. Ban đầu đi bằng tàu hỏa, rồi đi ngựa, đi bộ. Sau 3 tháng ròng rã, họ tới Lhasa, kinh đô của Tây Tạng. Đó là một chuyến đi đầy gian nan, cực khổ. Mùa đông băng tuyết giá lạnh thấu xương. Mùa hè, nóng khô da cháy thịt! Thật chẳng khác gì cảnh thầy trò Tam Tạng đi Tây Trúc thỉnh kinh trong truyện Tây Du Ký! Đi tới đâu, ngài học cách sống và tìm hiểu phong tục của nơi đó. Mỗi khi rảnh, ông học tiếng Tây Tạng...
Ở Tây Tạng, quốc vương cũng là một vị Lama (Lạt ma). Tại đây, ông đến viếng quốc tự của Tây Tạng. Đó là một ngôi chùa to lớn được làm toàn bằng vàng với hàng chục nóc nhà uy nghi, tráng lệ. Sau đó, ông đến viếng quốc vương và dâng lễ vật theo đúng tục lệ, nghi thức của Tây Tạng. Sau 3 lần dâng lễ vật, thiền sư được quốc vương khen ngợi là bậc chân tu và có tinh thần cầu đạo.
Ngày 4-10-1936, ông xin quốc vương ban pháp danh cho mình. Quốc vương chấp thuận và trao cho nhiếp chính vương ban đặt cho ông pháp danh Thubten - Osall Lama. Thubten là tên của Lama Thái Thượng Hoàng, cha quốc vương. Thubten cũng có nghĩa là viên kim cương. Osall có nghĩa là mặt trời, cũng là tên của quốc vương. Vì thế, pháp danh Thubten- Osall Lama mang nhiều ý nghĩa. Thiền sư Minh Tịnh là một trong những vị thiền sư hiếm hoi vinh dự đươc Quốc vương Nêpan ban đặt pháp danh. Ngày 29-10-1936, ông trở về Ấn Độ, tiếp tục tìm hiều Phật giáo. Ngày 14-6-1937, ông khởi hành trở về Việt Nam, kết thúc cuộc hành trình đến đất Phật. 7 giờ sáng, ngày 30-6-1937, ông về tới quê hương Việt Nam.
Sau khi từ Tây Tạng trở về, nghe danh thiền sư Minh Tịnh, ông Hương cả Trượng (ở làng Phú Cường, nay thuộc thị xã Thủ Dầu Một, người tạo lập ngôi chùa Bửu Hương Tự - tên cũ của chùa Tây Tạng tự) thỉnh thầy Minh Tịnh về trụ trì chùa này. Hòa thượng Minh Tịnh cũng là người đã tạo lập dòng giáo phái Phật giáo Mật tông ở Việt Nam. Chùa Tây Tạng là một ngôi chùa cổ có lối kiến trúc khá đặc biệt, chịu nhiều ảnh hưởng của Phật giáo Mật Tông. Ngày 17-5-1951, thiền sư viên tịch.
So với Đường Tăng của Trung Hoa, vị “tiểu Đường Tăng” của Việt Nam ít được biết tới và có lẽ công trạng còn khiêm tốn, nhưng với ý chí và hành trình gian truân đó, thiền sư cũng để lại niềm tự hào cho người Việt.
ĐỨC THỌ