Bảo vệ nguồn nước mặt, nước ngầm: Sẽ có nhiều giải pháp tiếp theo

Cập nhật: 22-05-2014 | 00:00:00
Đánh giá về chất lượng nguồn nước, các nhà chuyên môn cho biết Bình Dương dù nguồn nước mặt và nước ngầm khá phong phú, nhưng trên thực tế có dấu hiệu ô nhiễm và suy giảm bởi ảnh hưởng nước thải công nghiệp, nước thải sinh hoạt và ngay cả nước ngầm cũng bị ô nhiễm ở tầng nông…

 Tại các hội thảo từ bộ đến sở, ngành tổ chức bàn về vấn đề chất lượng nguồn nước, ai cũng cho rằng một thực tế đang diễn ra tại lưu vực sông Đồng Nai xoay quanh quy trình xả lũ liên hồ. Vào mùa mưa, khi xảy ra áp thấp nhiệt đới hoặc bão thì 13 hồ chứa, hồ thủy điện đều xả lũ, vùng hạ du thường bị ngập úng; còn mùa khô thì tất cả cùng tích lũy nước. Điều nàyđã gây ra tình trạng thiếu nước để sản xuất.

   Công ty TNHH Công nghiệp THREAD Việt Nam, khu phố Tân Mỹ, phường Thái Hòa, TX.Tân Uyên tiến hành trám lấp giếng khoan bị hư hỏng, bảo vệ nguồn nước

Khoảng 4 - 5 năm nay, biến đổi khí hậu làm cho thời tiết diễn biến cực đoan, mưa bão, lũ lụt khó lường. Hiện có 4 hồ lớn trên lưu vực sông Đồng Nai làm cho các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương và TP.HCM lo lắng nhất là Đơn Dương (Lâm Đồng), Đa Nhim (Bình Thuận), Trị An (Đồng Nai) và Dầu Tiếng (Tây Ninh). Giám đốc Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Tây Ninh Đặng Trọng Thành cho biết: “Nguồn nước đổ về Dầu Tiếng bắt nguồn từ Campuchia. Hiện phía thượng nguồn không có trạm quan trắc khí tượng thủy văn nên không thể dự báo trước được lượng mưa hay lũ sẽ đổ về, nên việc điều tiết xả lũ rất khó chủ động”.

Bàn về quy trình hồ chứa, nhằm để hạn chế ngập lụt do các hồ chứa mang lại, một số ý kiến nhận định, quy trình vận hành liên hồ chứa sẽ được tính toán dựa trên hiện trạng mưa, lũ của hơn 20 năm qua, từ đó đưa ra cách kiểm soát, phân kỳ để chống lũ trên sông Đồng Nai. Mục tiêu nhằm điều tiết việc xả lũ trên các hồ cho phù hợp để hạn chế ngập lụt ở vùng hạ du. Một số nhà chuyên môn ở Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn, nói: “Phải xây dựng chi tiết quy trình xả lũ của từng hồ trước khi xây dựng quy trình liên hồ chứa. Đồng thời, trong quy trình phải có những phương án dự phòng đến các trường hợp xấu nhất để các địa phương đề phòng trước”.

Nắm bắt thực trạng và định hướng tài nguyên nước (TNN), vì sự phát triển bền vững, trao đổi với chúng tôi, ông Lê Văn Tân, Trưởng phòng TNN và Khoáng sản Sở Tài nguyên - Môi trường (TN&MT), cho biết Bình Dương là một trong những tỉnh đầu tiên tiến hành điều tra, thống kê, trám lấp giếng hư hỏng, không sử dụng để bảo vệ nguồn nước dưới đất. Theo đó từ năm 2009 đến nay, các địa phương và ngành chức năng đã trám lấp 1.500 giếng hư hỏng, không sử dụng, góp phần ngăn ngừa ô nhiễm nguồn nước dưới đất trên địa bàn.

Liên quan đến việc quản lý, bảo vệ TNN, Bình Dương cũng đã ban hành quy định vùng cấm, vùng hạn chế khai thác nước dưới đất khu vực phía Nam của tỉnh, nhằm làm giảm tình trạng khai thác sử dụng khoáng sản và nước dưới đất tràn lan, làm giảm nguy cơ dẫn đến suy thoái, cạn kiệt TNN; đồng thời, còn đầu tư, duy trì mở rộng mạng lưới quan trắc trên địa bàn để bảo vệ TNN. Đến nay, Bình Dương có 36 công trình quan trắc nước dưới đất, 26 điểm quan trắc nước mặt và 1 trạm quan trắc nước mặt trên sông Đồng Nai. Mạng lưới quan trắc này đã giúp địa phương phát hiện kịp thời những diễn biến xấu về chất lượng, trữ lượng nước và đưa ra những giải pháp kịp thời để bảo vệ TNN.

Để tiếp tục quản lý, bảo vệ chặt chẽ nguồn nước mặt, nước ngầm, ông Tân cho biết sắp tới, phòng đã và đang triển khai thực hiện các Đề án về “Điều chỉnh, xác định bổ sung vùng cấm và hạn chế khai thác nước dưới đất trên địa bàn tỉnh Bình Dương”, trong đó sẽ xác định mới vùng cấm và hạn chế khai thác nước khu vực phía Bắc tỉnh và rà soát, bổ sung cho khu vực phía Nam đã xây dựng năm 2011. “Lập nhiệm vụ quy hoạch TNN” làm tiền đề, cơ sở cho việc xây dựng quy hoạch TNN tỉnh Bình Dương; trong đó bao gồm quy hoạch phân bổ nguồn nước, quy hoạch bảo vệ TNN và phòng chống, khắc phục hậu quả, tác hại do nước gây ra (Điều 19, Luật TNN 2012); xây dựng quy định quản lý TNN trên địa bàn tỉnh; tăng cường, đào tạo, bổ sung nguồn nhân lực quản lý TNN ở các cấp; đẩy mạnh, đa dạng hóa nữa công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật về TNN và tăng cường công tác thanh kiểm tra, hậu kiểm sau cấp phép về TNN …

Bài, ảnh: THÚY HỒNG

Chia sẻ bài viết

LƯU Ý: BDO sẽ biên tập ý kiến của bạn đọc trước khi xuất bản. BDO hoan nghênh những ý kiến khách quan, có tính xây dựng và có quyền không sử dụng những ý kiến cực đoan không phù hợp. Vui lòng gõ tiếng việt có dấu, cám ơn sự đóng góp của bạn đọc.

Gửi file đính kèm không quá 10MB Đính kèm File
Quay lên trên