Đại thắng mùa xuân 1975 - Mốc son chói lọi : Hoàn thành sứ mệnh lịch sử

Cập nhật: 29-04-2014 | 00:00:00
Bài cuối: Hoàn thành sứ mệnh lịch sử

> Bài 1: “Một ngày bằng 20 năm”

> Bài 2: Tiểu đoàn Phú Lợi - Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ

> Bài 3: Căn cứ Lai Khê tan rã

Cuộc kháng chiến trường kỳ chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta cuối cùng đã giành thắng lợi hoàn toàn vào ngày 30-4-1975. Niềm vui sướng hân hoan không gì diễn tả được bởi chúng ta đã đánh đổi biết bao mồ hôi, xương máu và nước mắt để làm nên điều kỳ diệu ấy. Từ đây, lịch sử đất nước ta bước sang trang mới: xây dựng, hội nhập và phát triển.

 Chiến thắng dồn dập

Nhắc đến không khí những ngày cuối tháng 4 lịch sử năm 1975, đôi mắt của ông Nguyễn Văn Hữu (Một Hữu), nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy, nguyên Tỉnh đội trưởng tỉnh Thủ Dầu Một, nguyên Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy tiền phương Thủ Dầu Một lại sáng lên. Ông kể, sau chiến thắng giòn giã của Tiểu đoàn Phú Lợi 2 trước Tiểu đoàn Bảo an 306 của ngụy, xã Bình Mỹ được giải phóng, ta làm chủ đường 16 một đoạn dài gần 10km (từ đầu ấp 1, xã Bình Mỹ đến cầu Bình Cơ), mở thông đầu cầu cho Sư đoàn 312, Quân đoàn 1 áp sát mục tiêu được an toàn.

   Với bà Nguyễn Thị Một thì không thể nào quên giây phút được cắm cờ trên nóc Nhà việc Phú Cường năm xưa. Ảnh: T.THẢO

Ở các vùng nông thôn trong tỉnh, trong suốt 21 năm kháng chiến chống Mỹ, chưa có thời gian nào nhân dân lại phấn khởi như lúc này. Nhiều nơi trong vùng địch, quần chúng công khai vận động binh lính trở về với gia đình, với cách mạng. Từ ngày 27-4, lực lượng vũ trang phối hợp với du kích xã tấn công nhiều đồn bót, căn cứ lớn, nhỏ của địch, giải phóng nhiều xã, huyện.

Vòng vây của ta đang siết chặt trên các hướng vào nội ô Sài Gòn, bọn địch phòng thủ với tâm trạng hoang mang cực độ. Tình hình trên toàn mặt trận đang diễn ra quyết liệt và diễn biến nhanh từng giờ, báo hiệu sự sụp đổ hoàn toàn của bộ máy tay sai phản động do Mỹ dựng lên.

Nhằm bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy các lực lượng tham gia tiến công giải phóng thị xã và các huyện phía trước, đêm 29-4, Thường trực Tỉnh ủy từ căn cứ ở Bình Mỹ chuyển xuống đứng chân tại xã Phú Chánh. Sở Chỉ huy tiền phương của tỉnh cùng Ban Chỉ huy Sư đoàn 312 từ căn cứ gò Ông Đông xuống đứng chân tại bàu Cây Trang đồng Bà Bèo, cách trung tâm thị xã Thủ Dầu Một 3km.

Đúng 5 giờ sáng ngày 30-4, sau những đợt pháo của sư đoàn bắn dồn dập, đơn vị xe tăng của Sư đoàn 312 tấn công vào căn cứ Phú Lợi, Tiểu khu quân sự Bình Dương. Trong cơn hoảng loạn, quân địch vứt cả súng đạn, cởi bỏ quân trang tháo chạy. Căn cứ Phú Lợi bị ta đánh chiếm, địch trong thị xã rúng động và náo loạn. Phát huy sức mạnh đột kích của xe tăng, Sư đoàn 312, cùng cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn Phú Lợi 2 và các đoàn công tác của tỉnh, thị xã nhanh chóng đánh chiếm các mục tiêu đã được phân công. Các tổ chức quần chúng hoạt động bí mật ra công khai, phối hợp với các đoàn cán bộ, đơn vị bộ đội cắm cờ giải phóng, chiếm giữ các mục tiêu, công sở địch.

“Tôi không nhớ chính xác nhưng khoảng 9, 10 giờ sáng, đúng như phân công, tôi và chị Hồng Nhung thực hiện việc treo cờ. Tôi đã tháo cờ của chế độ cũ xuống đất, bình tĩnh treo lá cờ Mặt trận giải phóng lên. Lá cờ tung bay trước niềm vui sướng của cán bộ, chiến sĩ cách mạng và nhân dân Thủ Dầu Một. Khó có thể nói gì hơn cảm xúc của chúng tôi lúc đó, vui mừng đến rơi nước mắt. Bao năm đất nước lầm than, bao nhiêu chiến sĩ cách mạng đã ngã xuống, bị tù đày… khiến cho nhiều gia đình ly tán, cha mẹ mãi mãi mất con, vợ mất chồng, con mất cha… Nay lịch sử đất nước đã sang một trang mới, hòa bình, hạnh phúc”.

(Bà Nguyễn Thị Một, nguyên Chủ tịch Hội Nông dân TP.Thủ Dầu Một)

Các lực lượng vũ trang của tỉnh và thị xã cùng lực lượng của Quân đoàn 1 tiến vào nội ô thị xã, chiếm các cơ quan trọng yếu của địch như tòa hành chính, dinh tỉnh trưởng, khám đường…, đồng thời phát loa kêu gọi địch đầu hàng và bắt sống hơn 700 tên. Trong tình thế tuyệt vọng, đại tá ngụy Nguyễn Văn Của, Tỉnh trưởng chính quyền tay sai tỉnh Bình Dương cùng mấy tên tùy tùng đi trên chiếc xe Jeep chạy ra Gò Đậu, định tháo chạy về Sài Gòn thì bị tổ an ninh mật do đồng chí Cẩm Vân phụ trách bắt sống lúc 9 giờ 40 phút ngày 30-4-1975.

Trong giờ phút sục sôi khí thế thắng trận thì không có niềm vui sướng nào bằng việc nhìn thấy cờ cách mạng tung bay trên nóc nhà các cơ quan công sự trọng yếu của địch. Bà Nguyễn Thị Một, người treo cờ trên cột cờ Nhà việc Phú Cường năm ấy, nguyên Chủ tịch Hội Nông dân TP.Thủ Dầu Một, luôn nhớ về giây phút lịch sử này với niềm tự hào và vui sướng. Bà bắt đầu câu chuyện của mình: Khi những sào huyệt cuối cùng của địch trên toàn miền Nam sắp sụp đổ, ngày 28-4-1975, bà nhận được chỉ thị khẩn cấp của đồng chí Lê Văn Cao là chuyển ngay 3 công văn gấp xuống cho cánh Nam, còn bà Hồng Nhung chuẩn bị gấp một lá cờ Mặt trận giải phóng để ngày 30-4 tham gia cùng cánh Bắc tiến vào giải phóng Thủ Dầu Một. Bà được phân công trực tiếp treo lá cờ lên cột cờ Nhà việc Phú Cường (đây là một trung tâm hành chính quan trọng của chính quyền ngụy tại Thủ Dầu Một lúc bấy giờ).

“Tối 29-4, tôi cùng chị Hồng Nhung đến nhà chị Năm Xuân (chị ruột của chị Hồng Nhung, cũng là một cơ sở cách mạng) ở chợ Cây Dừa để may cờ. Suốt đêm không ngủ, chúng tôi cắt may cờ và 30 băng đỏ để sử dụng trong ngày giải phóng. Sáng hôm sau, tôi được lệnh tham gia giải phóng Thủ Dầu Một. Từ chợ Cây Dừa về trung tâm thành phố hai bên đường vắng vẻ, ít người đi lại. Khi về đến ngã sáu, tôi thấy quần áo, quân trang quân dụng của lính ngụy vứt ngổn ngang hai bên đường. Trước sức mạnh của lực lượng ta, bọn chúng bỏ của chạy lấy người. Các cán bộ, chiến sĩ của ta đã nhanh chóng tiến lên chiếm lĩnh các vị trí, cơ quan then chốt của ngụy quân, ngụy quyền ở trung tâm tỉnh lỵ Thủ Dầu Một. Khi chúng tôi tiến vào Nhà việc Phú Cường thì đồng chí Bảy Tấn (sau này nguyên là Bí thư Thành ủy Thủ Dầu Một) cũng ở đó cùng với những cán bộ, chiến sĩ cách mạng khác để chiếm lĩnh mục tiêu”, bà Một kể.

Ký ức mãi không phai

Với những người từng vào sinh ra tử, bao ngày chờ đợi đất nước được giải phóng thì ký ức của những ngày cuối tháng 4-1975 lịch sử như sống mãi trong lòng họ. Mặc dù 39 năm trôi đi có thể làm người ta quên đi nhiều thứ; những ký ức chiến tranh đang dần nhạt nhòa; những hố bom sâu hoắm minh chứng cho một thời ác liệt cũng bị vùi lấp dần, nhưng với những người đã từng vào sinh ra tử cho cuộc chiến này thì họ mãi mãi không bao giờ quên.

Bà Nguyễn Thị Một xúc động nói: “Dù trải qua bao nhiêu năm tháng, bao thăng trầm của lịch sử nhưng cứ đến ngày 30-4, nhớ lại phút giây lịch sử ấy lòng tôi lại lâng lâng niềm vui sướng, xen lẫn tự hào và tự hứa với mình sống sao cho xứng đáng với niềm tin ấy”.

Còn với ông Phạm Văn Sơn, nguyên là du kích Định Hòa (TP.Thủ Dầu Một) thì ký ức về ngày ấy cũng còn mãi. Ông Sơn tâm sự, chiến tranh đã lùi xa nhưng những ký ức về một thời hào hùng như mới diễn ra hôm qua. Mỗi khi có dịp gặp nhau, anh em đồng chí, đồng đội cùng ôn lại kỷ niệm một thời gian khổ nhưng rất đỗi hào hùng.

Ông Sơn tham gia Đội du kích Định Hòa năm 1972, khi ấy ông mới 14 tuổi. Nhiệm vụ chính của du kích khi ấy là diệt ác, diệt tề; vận động bà con thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước; vận động bà con tham gia các tổ chức Đoàn, Hội, tham gia đánh trận. Đến đầu năm 1973, ông được đưa về tham gia Đội trinh sát đặc công của huyện Châu Thành cho đến ngày giải phóng. Ông còn nhớ mãi đêm 29-4-1975, ông được giao nhiệm vụ dẫn lực lượng bộ đội chủ lực (khi ấy ông là Phó đội trinh sát đặc công) về giải phóng tỉnh Thủ Dầu Một. Nhưng đến Bình Chuẩn (phường Bình Chuẩn, TX.Thuận An hiện nay) đoàn của ông bị lạc đường và đã ở lại chiến đấu tại đây. Sáng hôm sau, đoàn định trở về chiến khu Vĩnh Lợi thì gặp lực lượng của ta từ chiến khu về, đoàn hòa vào tiến về giải phóng Thủ Dầu Một. Tuy nhiên, vừa đến cứ (thuộc phường Phú Cường, TP.Thủ Dầu Một hiện nay) thì đã nghe tin giải phóng và đoàn của ông có nhiệm vụ ở lại tiếp quản.

Ông Sơn nhớ lại: “Vui nhất là lúc nhận nhiệm vụ tiếp quản. Tôi cùng mười mấy đồng chí khác đã tiếp quản cả khu quân sự lớn của huyện Châu Thành. Sung sướng nhất chính là mình đã trở thành chủ, làm chủ đất nước thật sự”.

Chiến tranh đã qua đi, đất nước ngày càng thay da đổi thịt, hội nhập phát triển, nhưng nỗi đau của chiến tranh vẫn còn đó. Biết bao người vợ mất chồng, người con mất cha; nhiều người một phần thân thể đã nằm lại chiến trường, mỗi khi trái gió trở trời lại hành hạ đau nhức; những hậu quả của chất độc da cam/ dioxin mà đời con, đời cháu chưa trả hết… Điều đó luôn nhắc nhở thế hệ hôm nay phải biết giá trị của hòa bình để cùng nhau xây dựng và bảo vệ nó.

 THU THẢO

Chia sẻ bài viết

LƯU Ý: BDO sẽ biên tập ý kiến của bạn đọc trước khi xuất bản. BDO hoan nghênh những ý kiến khách quan, có tính xây dựng và có quyền không sử dụng những ý kiến cực đoan không phù hợp. Vui lòng gõ tiếng việt có dấu, cám ơn sự đóng góp của bạn đọc.

Gửi file đính kèm không quá 10MB Đính kèm File
Quay lên trên