J22 và ngày 30-4

Cập nhật: 09-04-2010 | 00:00:00

J22 là mật danh của Phòng Tình báo Bộ Tham mưu B2 (Quân giải phóng Miền Nam) thời kì kháng chiến chống Mỹ. Những chiến công thầm lặng mà vĩ đại của J22 đối với ngày toàn thắng 30-4-1975 cho đến nay vẫn còn ít người được biết đến.

Trong cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược, nhất là từ giữa năm 1965, khi quân đội viễn chinh Mỹ trực tiếp, ào ạt tràn vào Việt Nam thì hiệu suất phục vụ về tài liệu, tin tức tình báo có giá trị của J22 được nâng lên rõ rệt. Với những điệp viên có tài như: Phạm Xuân Ẩn, trong vỏ bọc bình phong là phóng viên Báo Time của Mỹ thường trú tại Sài Gòn; Đặng Trần Đức nằm trong cơ quan Đặc ủy Trung ương Tình báo ngụy; Vũ Ngọc Nhạ với vị trí cố vấn tôn giáo cho tổng thống ngụy và nhiều chiến sĩ tình báo khác "cài" trong Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu, Quốc hội của ngụy... thì các tài liệu, tin tức có giá trị về âm mưu, chương trình, kế hoạch hoạt động của địch được các điệp viên của J22 thu thập và chuyển ra cho cấp trên khá đều đặn.

Quân giải phóng đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu ngụy ngày 30-4-1975. Ảnh Tư liệu

Trong thời gian này, Mỹ-ngụy có hàng loạt kế hoạch tuyệt mật với kí hiệu AB. Cứ vào khoảng tháng 11 hằng năm, viên Tổng chỉ huy quân viễn chinh Mỹ tại Việt Nam và Tổng Tham mưu trưởng ngụy cùng kí vào bản chương trình hành động hỗn hợp liên quân Mỹ-ngụy cho năm tới. Văn bản này được gọi tắt là kế hoạch AB. Điều thần kì là mỗi khi chúng kí xong thì chưa đầy tuần sau, nguyên bản kế hoạch đó đã có ở Văn phòng Bộ tham mưu Miền và Bộ Tổng tham mưu của ta tại Hà Nội, từ AB 145, AB 146, AB147 và đều đều như vậy những năm tiếp theo. Các kế hoạch đột xuất khác có giá trị chiến lược như kế hoạch ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho chiến trường miền Nam bằng cuộc đảo chính Xi-ha-núc, mở rộng chiến tranh sang Cam-pu-chia, chiếm cảng Xi-ha-nuc-vin, bịt kín Đường 9-Nam Lào … nhờ tài liệu, tin tức tình báo của J22 mà ta biết trước để tìm cách đối phó.

Sau những thất bại liên tiếp về quân sự, chính trị, ngoại giao, nhất là sau chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” trong 12 ngày đêm cuối năm 1972, buộc Mỹ phải kí Hiệp định Pa-ri với ta. Theo hiệp định đó, ngày 27-3-1973, tên lính Mỹ cuối cùng rút khỏi miền Nam Việt Nam. Bởi vậy, trên chiến trường chỉ còn quân ngụy với sự tăng viện vũ khí, phương tiện chiến tranh của Mỹ, nên thế chủ động hoàn toàn đã thuộc về ta. Để chuẩn bị cho những trận đánh lớn, nhằm giải phóng hoàn toàn miền Nam, cấp trên rút một số cán bộ trong các đơn vị ra Bắc học tập. Trong số đó, J22 được cử 2 người là Thượng tá Sáu Trí, Chỉ huy trưởng J22 và tôi-Nguyễn Văn Tàu, Phó chính uỷ J22. Anh Sáu Trí vào học ở Học viện Quân sự, còn tôi học tại Học viện Chính trị, lúc ấy sơ tán ở Đông Anh (Hà Nội). Khoá học dự kiến là hai năm nhưng mới được một năm thì chiến trường diễn biến mau lẹ. Tháng 3-1975, chiến dịch Tây Nguyên toàn thắng, địch tháo chạy khỏi Tây Nguyên, hiện tượng hoảng loạn trong ngụy quân xuất hiện. Tiếp đó, Huế rồi Đà Nẵng được giải phóng, thời cơ nghìn năm có một xuất hiện. Bộ Chính trị hạ quyết tâm giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa. Dù mới qua nửa khoá học, nhưng số cán bộ từ B2 ra được lệnh trở về chiến trường. Ai cũng hăm hở lên đường để kịp dự trận đánh quyết định cuối cùng.

Ô tô theo đường Hồ Chí Minh đưa anh Sáu Trí và tôi trở về chiến khu Lộc Ninh. Vừa đến nơi, anh Sáu Trí được phân công vào ngay nội thành Sài Gòn nắm cơ sở điệp báo cao cấp, còn tôi xuống Củ Chi nhận nhiệm vụ Chính uỷ Lữ đoàn Đặc công biệt động 316 đang áp sát Sài Gòn. Lúc này, nhiều đơn vị thuộc Lữ đoàn đã vào “lót ổ” sẵn trong nội đô.

Xin nói vài nét về Lữ đoàn Đặc công biệt động 316. Theo chỉ thị của Bộ Tham mưu B2, tháng 10-1974, J22 phải rút cán bộ, chiến sĩ ra làm nòng cốt thành lập Lữ đoàn đặc công biệt động chuẩn bị cho hành động chiến lược khi thời cơ đến. Phiên hiệu Lữ đoàn 316 được đặt để nghi binh. Chỉ huy lữ đoàn đến các tiểu đoàn (gọi tắt là các Z) đều là cán bộ Phòng Tình báo Miền. Đồng chí Nguyễn Thanh Tùng, Phó trưởng phòng J22 được cấp trên chỉ định làm Lữ đoàn trưởng; đồng chí cán bộ tình báo lão thành Mười Khánh làm Chính uỷ, khi tiến đánh Sài Gòn thì tôi về thay. Lữ đoàn đã có những trận đánh tiêu biểu như trận đánh chiếm cầu Rạch Chiếc (trên xa lộ Hà Nội hiện nay) từ khuya ngày 27-4-1975 và giữ cầu cho đến khi đại quân của ta có xe tăng dẫn đường đi qua lúc 10 giờ sáng ngày 30-4, sau đó tiến vào Dinh Độc lập. Để giữ được cầu trong những ngày lịch sử ấy, đơn vị Z33 đã chấp nhận thương vong đến 50 đồng chí. Hay như trận đánh chiếm cơ quan Tổng Tham mưu ngụy lúc 9 giờ 30 phút sáng 30-4 làm rối loạn sự chỉ huy của địch trước khi đại quân tiến vào là do Đơn vị Z28 thuộc Lữ đoàn 316 thực hiện. Tôi xin chỉ sơ lược những chiến công của Lữ đoàn Đặc công biệt động 316-đơn vị hành động của J22, góp phần vào thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh.

Từ khi lọt vào Sài Gòn anh Sáu Trí ở tại nhà đồng chí Ba Lễ, một cán bộ điệp báo thuộc cụm tình báo A.20. Lúc ấy, đồng chí Ba Lễ đang là nghị sĩ có uy tín trong Quốc hội Sài Gòn.

Sáng 30-4, đại quân ta từ 5 hướng áp sát Sài Gòn. Ngụy quyền Dương Văn Minh lúng túng tìm cách đối phó. Có sự tranh luận gay gắt giữa hai phái chủ chiến và chủ hoà trong nội các ngụy. Nhận được thông tin của anh Ba Lễ và anh Tô Văn Cang (một cơ sở tình báo của ta có uy tín trong phái chủ hoà), Tổng thống Dương Văn Minh biết được sự có mặt của anh Sáu Trí trong Sài Gòn, Theo chúng, anh Sáu Trí là một cán bộ tầm cỡ trong Mặt trận Dân tộc

Giải phóng Miền, nên Tổng thống Dương Văn Minh liền cử hai người đến nhà anh Ba Lễ gặp anh Sáu Trí hỏi ý kiến xin lập Chính phủ liên hiệp 3 thành phần. Anh Sáu Trí trả lời: Các ông đến nước này rồi thì chỉ có đầu hàng vô điều kiện là sáng suốt nhất. Trong giờ phút đầy biến động đó, anh Sáu Trí, anh Ba Lễ, anh Tô Văn Cang cùng đi chung một xe ô tô vào Dinh Độc lập với ý định tiếp tục khuyến dụ Dương Văn Minh đầu hàng. Đang nói chuyện thì xe tăng quân ta (Lữ đoàn 203) húc sập cửa dinh tiến vào. Lúc này xảy ra một chuyện. Chẳng là thấy các chiến sĩ xông vào bắt nội các Dương Văn Minh, cứ trừng mắt nhìn anh Sáu Trí đứng lẫn trong đó. Không ngờ, đến khi một người chỉ huy của Quân giải phóng tiến vào, nhận ra anh Sáu Trí (vì hai người vừa cùng học ở Học viện Quân sự ngoài Hà Nội) thì tủm tỉm cười: “Đi đâu cũng đụng ông tình báo này”. Lúc đó, các chiến sĩ mới vỡ lẽ vì sao trong hàng ngũ quân ngụy khi nãy, anh Sáu Trí lại nhẹ nhàng nhắc các chiến sĩ cần làm tốt quy định xử lý tù binh. Khi Dương Văn Minh được chở đến Đài Phát thanh Sài Gòn đọc lời đầu hàng thì anh Sáu Trí ở lại được phân công soạn thảo “Quân lệnh số 1” nhằm ổn định tình hình.

Những đóng góp thầm lặng của Phòng Tình báo J22 góp công trong ngày 30-4 còn nhiều chuyện nữa, chỉ xin nêu hai sự kiện tiêu biểu:

Chuyện thứ nhất: Từ đầu tháng 4-1975, khi tình thế quân ngụy đã vô cùng bi đát, Nguyễn Văn Thiệu cử một phái đoàn đại diện Quốc hội Việt Nam Cộng hoà sang thuyết phục Quốc hội Mỹ tăng viện để cứu chế độ Thiệu khỏi sụp đổ. Phái đoàn do ông Đinh Văn Đệ, Phó chủ tịch Quốc hội là trưởng đoàn. Ông Đệ là cán bộ điệp báo của J22. Ông còn có người em là Đinh Văn Huệ, lúc ấy là Chính trị viên Tiểu đoàn giao thông vũ trang của J22. Nay cả ông Huệ, ông Đệ đều đã ngoài 80, sống ở Thành phố Hồ Chí Minh. Theo lời ông Đệ kể lại, trong chuyến đi Mỹ, ngoài việc ngoại giao thông thường tại các buổi họp chính thức, thực hiện chỉ thị của Thủ trưởng J22, ông đã tiến hành những cuộc vận động riêng lẻ với các nghị sĩ Mỹ có tầm cỡ để họ không ủng hộ Tổng thống Mỹ có thêm những hành động chi viện cho Thiệu. Kết quả là Quốc hội Mỹ buộc Tổng thống chỉ được viện trợ thêm tiền chứ không được can thiệp quân sự một lần nữa vào Việt Nam.

Chuyện thứ hai: Đến giữa tháng 4-1975, trước thời khắc ta chuẩn bị tiến công giải phóng Sài Gòn, Bộ Chính trị nêu vấn đề và yêu cầu tình báo trả lời: Nếu ta đánh lớn vào Sài Gòn, liệu Mỹ có cho quân đổ bộ vào cứu ngụy hay không ? Giải đáp thoả đáng câu hỏi này là công của đồng chí Nguyễn Văn Minh, một cán bộ điệp báo của J22. Từ lâu, anh Minh là thượng sĩ giữ hồ sơ mật của Văn phòng Tổng Tham mưu trưởng quân ngụy. Lúc đó, có lá thư của Tổng thống Mỹ gửi cho Thiệu, đại ý: Cuộc chiến tranh tại Việt Nam coi như đã chấm dứt đối với Mỹ, chỉ chi viện thêm 700 triệu đô la còn tùy quân ngụy định liệu. Thiệu đã sao bức thư này, gửi cho Tổng Tham mưu trưởng. Anh Minh nhận được hồ sơ này, ngay lập tức chép lại và gửi ra cho chỉ huy Miền. Nhờ tài liệu này, Bộ Chính trị nắm được điểm yếu của địch, càng củng cố quyết tâm thần tốc hơn nữa, táo bạo hơn nữa trong tiến công vào sào huyệt cuối cùng của ngụy quân, ngụy quyền.

Với thế áp đảo về lực lượng, được Bộ Tổng tư lệnh huy động tối đa; được sự hỗ trợ của các đoàn thể, sự đồng tâm hiệp lực của nhân dân, quân ta chiếm Sài Gòn rất nhanh, rất gọn, ngoài sự tính toán của địch. Theo tin tức tình báo ta thu được, không phải địch không có ấm mưu đối phó vào giờ chót nhưng mọi việc đã trễ vì quân ta tiến quá nhanh. Từ trưa 30-4, Sài Gòn đã trở về tay nhân dân một cách êm đẹp và nguyên vẹn. Năm 2000, J22 được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân. Trong J22 còn có 2 cụm tình báo và 16 cán bộ, chiến sĩ được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân.

                                                               Đại tá Nguyễn Văn Tàu (Anh hùng LLVT nhân dân)

(THEO QĐND)

Chia sẻ bài viết

LƯU Ý: BDO sẽ biên tập ý kiến của bạn đọc trước khi xuất bản. BDO hoan nghênh những ý kiến khách quan, có tính xây dựng và có quyền không sử dụng những ý kiến cực đoan không phù hợp. Vui lòng gõ tiếng việt có dấu, cám ơn sự đóng góp của bạn đọc.

Gửi file đính kèm không quá 10MB Đính kèm File
Quay lên trên