Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp: Hạn chế nạn đầu cơ đất

Cập nhật: 21-06-2012 | 00:00:00

Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2012 so với Pháp lệnh thuế nhà, đất 1992 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thuế nhà, đất năm 1994. Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp sẽ góp phần tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với đất đai, khuyến khích các tổ chức, cá nhân sử dụng đất có hiệu quả, góp phần hạn chế nạn đầu cơ đất và khuyến khích thị trường bất động sản phát triển lành mạnh; động viên hợp lý sự đóng góp của người sử dụng đất, nhất là những đối tượng sử dụng đất vượt hạn mức quy định vào ngân sách Nhà nước.

Bên cạnh những đối tượng chịu thuế sử dụng là đất ở tại nông thôn, đô thị thì đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp, bao gồm đất xây dựng khu công nghiệp, đất làm mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh, đất khai thác, chế biến khoáng sản, đất sản xuất vật liệu xây dựng, làm đồ gốm; đất phi nông nghiệp khác vào mục đích kinh doanh cũng phải đóng thuế.

Quan trọng hơn, luật thuế quy định linh hoạt, cụ thể đối với các đối tượng không chịu thuế (đất do cơ sở tôn giáo, nghĩa trang, nghĩa địa, đất xây dựng trụ sở cơ quan, quốc phòng, an ninh...) nhưng quá trình sử dụng lại dùng vào mục đích kinh doanh thì cũng phải chịu thuế. Trường hợp tổ chức, cá nhân chưa được cấp chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất thì người đang sử dụng đất sẽ là người nộp thuế. Những trường hợp có đất nhưng đang bị tranh chấp thì trước khi tranh chấp được giải quyết, người đang sử dụng đất sẽ phải nộp thuế. Việc nộp thuế trong trường hợp này không phải là căn cứ để giải quyết các tranh chấp về đất. Trong trường hợp góp vốn kinh doanh bằng quyền sử dụng đất thì người nộp thuế là pháp nhân mới.

Căn cứ tính thuế là giá tính thuế và thuế suất. Giá tính thuế đối với đất được xác định bằng diện tích đất tính thuế nhân với giá của 1m2 đất. Diện tích đất tính thuế là diện tích đất thực tế sử dụng.

Điểm đặc biệt quy định trong luật được nhiều người quan tâm là thuế suất. Theo đó, thuế suất được chia làm 3 bậc theo diện tích đất tính thuế. Diện tích đất tính thuế nằm trong hạn mức đất ở làm căn cứ tính thuế tùy thuộc vào diện tích đất ở của từng địa phương. Nếu người sử dụng đất có diện tích tính thuế nằm trong hạn mức thì phải chịu thuế suất ở mức 0,03%. Phần diện tích đất ở vượt hạn mức dưới 3 lần thì sẽ chịu thuế suất 0,07%. Phần diện tích vượt trên 3 lần hạn mức và đất sử dụng không đúng mục đích, đất chưa sử dụng theo quy định sẽ phải chịu mức thuế 0,15%. Loại đất lấn chiếm được áp dụng mức thuế rất cao, lên tới 0,2%.

Riêng trường hợp người nộp thuế có quyền sử dụng nhiều thửa đất trong phạm vi tỉnh, thành phố thì diện tích tính thuế là tổng diện tích các thửa đất ở tính thuế. Theo cách tính thuế suất như trên, người có nhiều diện tích đất ở sẽ phải chịu mức thuế suất lũy tiến theo diện tích ngoài hạn mức và góp phần hạn chế tình trạng đầu cơ đất đai, giúp thị trường bất động sản phát triển minh bạch hơn.

M.H

Chia sẻ bài viết

LƯU Ý: BDO sẽ biên tập ý kiến của bạn đọc trước khi xuất bản. BDO hoan nghênh những ý kiến khách quan, có tính xây dựng và có quyền không sử dụng những ý kiến cực đoan không phù hợp. Vui lòng gõ tiếng việt có dấu, cám ơn sự đóng góp của bạn đọc.

Gửi file đính kèm không quá 10MB Đính kèm File
Quay lên trên