Bài 3: “Người đi tìm hình của nước”
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, dưới ách thống trị của thực dân Pháp và phong kiến tay sai, phong trào yêu nước ở Việt Nam đã nổ ra khắp nơi với nhiều xu hướng khác nhau. Tuy vậy, các phong trào này đều thất bại và bị thực dân Pháp đàn áp, chìm trong biển máu. Cách mạng Việt Nam đứng trước sự khủng hoảng về đường lối lãnh đạo. Trong bối cảnh đó, với lòng yêu nước nồng nàn và nhãn quan chính trị sắc bén, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sau 30 năm bôn ba ở hải ngoại đã tìm ra con đường cứu nước, cứu dân...
Tàu Latouche Treville, con tàu đã đưa người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước vào ngày 5-6-1911. Ảnh: T.L
Từ chủ nghĩa yêu nước
“…Bao nẻo người đi bước trước sau/ Một câu hỏi lớn biết về đâu?/ Năm châu thăm thẳm trời im tiếng…”. Đây là những câu thơ trong bài thơ “Người đi tìm hình của nước” trong tập “Ánh sáng và phù sa” của nhà thơ Chế Lan Viên vẽ lên bối cảnh lịch sử khi chàng thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành rời bến cảng Nhà Rồng, ngày 5-6-1911, bôn ba tìm đường cứu nước. Cuộc hành trình qua 3 đại dương và gần 30 quốc gia đã đưa Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, học thuyết cách mạng tiên phong của thời đại, tìm thấy ánh dương soi đường cho cách mạng Việt Nam.
Trước các phong trào do các sĩ phu yêu nước khởi xướng, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành rất ngưỡng mộ và kính trọng lòng yêu nước dũng cảm, kiên cường của các bậc tiền bối. Nhưng Người sớm nhận ra rằng, con đường do những người đi trước mở ra sẽ không giải phóng được dân tộc mà cần thiết phải có con đường mới phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử để giành lại độc lập, tự do cho dân tộc; phải ra nước ngoài xem nước Pháp và các nước độc lập phát triển như thế nào để trở về giúp đồng bào ta, đất nước ta thoát khỏi cảnh áp bức, nô lệ. Vì vậy, Nguyễn Tất Thành chọn cho mình hướng đi mới, đó là tìm cách đến các nước phương Tây. Quyết định này về sau Người nói: “Nhân dân Việt Nam, trong đó có cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi ai là người sẽ giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Nhật, người khác lại nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thì thấy phải đi ra nước ngoài để xem cho rõ…”.
Nung nấu quyết tâm đi tìm đường cứu nước mới, chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành đã đi bộ từ Phan Thiết để tới Sài Gòn, tìm cơ hội thực hiện ý định cháy bỏng đó. Đến Sài Gòn, Nguyễn Tất Thành nhanh chóng tìm được một trường kỹ thuật do Pháp quản lý, ở đó thủy thủ Việt Nam được dạy về hàng hải, về giao thông vận chuyển hàng… Trong những ngày đó, Người thường xuyên đến bến cảng Sài Gòn, hình ảnh những chiếc tàu neo bến làm lòng Người không yên. Và ngày 5-6-1911, trên con tàu Amiral La Touche De Tréville từ cảng Sài Gòn, với tên gọi là Văn Ba, xin làm phụ bếp, Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc, bắt đầu cuộc hành trình 30 năm tìm đường giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước. Vào thời điểm đó, không ai biết rằng vận mệnh của dân tộc Việt Nam đã gắn liền với quyết định ra đi của một con người mà lịch sử đã chứng tỏ là sáng suốt phi thường.
Trong hành trình vạn dặm khắp các châu lục, dù phải vất vả lao động kiếm sống, dù gặp phải muôn vàn khó khăn, không lúc nào Nguyễn Tất Thành xa rời mục tiêu của mình: “Đêm mơ nước ngày thấy hình của nước”. Trước những bến bờ xa lạ, Người càng thấy yêu hơn, hiểu nhiều hơn về nỗi đau thương của dân tộc, đất nước mình. Nếu như không có sự tồn tại của hình ảnh đất nước đau thương, có lẽ sẽ không có động lực để Người đi tìm dáng hình tương lai cho Tổ quốc Việt Nam mới.
Đến chủ nghĩa Mác - Lênin
Trong vòng 10 năm, từ năm 1911 đến năm 1920, Nguyễn Tất Thành đã tận dụng mọi cơ hội để được đến nhiều nơi trên thế giới. Bàn chân của Người đã từng in dấu trên nhiều nước thuộc các đại lục Âu, Á, Phi, Mỹ. Đặc biệt, Người đã dừng chân khảo sát khá lâu ở 3 nước đế quốc lớn nhất thời đó là Mỹ, Anh và Pháp. Với những chuyến đi, Người tranh thủ mọi thời cơ để học hỏi, nghiên cứu các học thuyết cách mạng, hòa mình vào thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư bản và thuộc địa, từ đó Người đã bổ sung được cho mình những kiến thức vô cùng phong phú với một tầm nhìn hết sức rộng lớn và bao quát. Người đã rút ra kết luận là chủ nghĩa đế quốc, thực dân là cội nguồn của mọi đau khổ cho giai cấp công nhân và nhân dân ở các nước chính quốc cũng như thuộc địa.
Chính từ chủ nghĩa yêu nước cùng với những năm tháng tìm tòi không mệt mỏi về lý luận và hoạt động trong phong trào công nhân quốc tế, người thanh niên Việt Nam Nguyễn Tất Thành bất chấp mọi hiểm nguy, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp cuối năm 1920, trở thành nhà hoạt động quốc tế xuất sắc Nguyễn Ái Quốc. Sớm nhận thức được xu thế phát triển tất yếu của lịch sử và tính chất của thời đại mới mà Cách mạng Tháng Mười mở ra, Người xác định con đường cứu nước, con đường giải phóng dân tộc đúng đắn, khám phá ra chân lý lịch sử: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Người đã viết: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”.
Từ năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị về lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Với tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” và “Đường Kách mệnh”, đặc biệt là việc xuất bản tờ báo Thanh niên ra ngày 21-6-1925, Người đã chuẩn bị về đường lối chính trị để tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong thời gian này, Người cũng tập trung cho việc chuẩn bị về tổ chức và cán bộ với việc Người lập ra Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ và gửi đi học ở Liên Xô... Khi điều kiện thành lập Đảng đã chín muồi, ngày 3-2- 1930, dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc tại Hương Cảng (Trung Quốc), hội nghị hợp nhất 3 tổ chức cộng sản đã nhất trí thành lập một đảng thống nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Mùa xuân năm 1941, sau 30 năm bôn ba nước ngoài, rời xa Tổ quốc, ngày 28-1-1941, Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng. Người chỉ ra rằng, trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, con đường duy nhất phải theo là con đường cách mạng dân tộc dân chủ do Đảng tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo đánh đổ đế quốc, thực dân, giành độc lập dân tộc, sau đó tiến lên thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ngày 19-5- 1941, giữa vùng núi rừng Pắc Bó, theo sáng kiến của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Mặt trận Việt Minh ra đời giữa lúc nhân dân Việt Nam đang rên xiết trong cảnh một cổ hai tròng, vận mệnh dân tộc đang trong cảnh nước sôi lửa bỏng. Sự thành lập và hoạt động của Việt Minh đã trở thành nhân tố cơ bản quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945.
Dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, lớp lớp thế hệ người Việt Nam đã và đang vững bước trên con đường mà Người đã chọn; con đường mang tầm nhìn vượt thời gian, đưa đất nước và dân tộc ta vượt qua biết bao khó khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, thực hiện công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thoát khỏi nước kém phát triển, từng bước tiến lên “sánh vai với các cường quốc năm châu”; thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, kết hợp với sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và sức mạnh của thời đại, với sự quản lý điều hành có hiệu quả của Nhà nước và sự phấn đấu nỗ lực của toàn xã hội, chúng ta sẽ vững bước trên con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn. (còn tiếp)
Ngày 5-6-1911, với tên Văn Ba, người thanh niên ưu tú nhất của dân tộc Việt Nam - Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc, lên tàu Latouche Tréville, mở đầu cuộc hành trình vạn dặm quyết tâm tìm đường cứu nước, cứu dân. Từ con đường giải phóng dân tộc mà Người đã lựa chọn, sau bao năm bôn ba ở nước ngoài trên khắp các châu lục, cách mạng Việt Nam đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
P.V (thực hiện)