Bác Hồ - một tình yêu bao la… Bài cuối

Cập nhật: 19-05-2015 | 08:42:13

Bài cuối: Người đi rừng núi trông theo bóng Người…

Sáng tháng năm trời trong xanh bát ngát, hòa giữa dòng người tấp nập, chúng tôi có dịp về thăm Cao Bằng trong chuyến công tác dài ngày để thực hiện loạt ký sự nhân dịp kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ vào năm ngoái. Cao Bằng, vùng đất địa đầu của Tổ quốc vinh dự là nơi đầu tiên đón Bác trở về sau 30 năm Người bôn ba đi tìm đường cứu nước. Trong những ngày đầu hoạt động cách mạng đầy khó khăn, gian khổ, Người cùng ăn, cùng ở với đồng bào các dân tộc thiểu số nơi đây. Vì thế, tình cảm của Bác đối với đồng bào hết sức chân thành, không chỉ là tình cảm của vị lãnh tụ mà còn là sự tri ân đối với đồng bào đã đùm bọc, chở che Người trong những tháng ngày gian lao, vất vả.

Suối Lênin tại Khu di tích quốc gia đặc biệt Pác Bó, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng

Người xưa, cảnh cũ như còn nơi đây

Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt/ Trắng rừng biên giới nở hoa mơ…/ Ba mươi năm ấy chân không nghỉ/ Mà đến bây giờ mới tới nơi... Đây là những câu thơ của Tố Hữu viết khi Bác Hồ sau 30 năm bôn ba ở nước ngoài, lần đầu tiên đặt chân trở lại trên mảnh đất Việt Nam thân yêu. Theo tư liệu lịch sử, cuối năm 1940, Trung ương Đảng đã cử các đồng chí Hoàng Văn Thụ, Phùng Chí Kiên sang Trung Quốc để báo cáo tình hình cách mạng trong nước và đón Bác về. Qua báo cáo, Bác thấy Cao Bằng là một tỉnh có phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ, lại có vị trí địa lý thuận lợi, nên Người đã quyết định chọn Cao Bằng là nơi trở về Tổ quốc, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Khi đó, hành trang của Người về nước chỉ vỏn vẹn có chiếc va li mây, bên trong có đựng chiếc máy chữ và một số tài liệu quan trọng khác, trong đó có lá cờ đỏ sao vàng.

Sau khi đến huyện Nguyên Bình, thăm khu rừng Trần Hưng Đạo - nơi thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân theo chỉ thị của Bác, chúng tôi trải qua hành trình gần 100km, ngược lên huyện Hà Quảng, tìm về Khu di tích quốc gia đặc biệt Pác Bó. Theo như diễn giải của người dân bản địa, Pác Bó có nghĩa là đầu nguồn nước. Nơi đây có dòng suối lớn, nước trong vắt, thoát ra từ hang núi đá lớn, Bác đặt tên là suối Lênin. Hang đá Cốc Bó, nơi Bác ở và làm việc nằm sâu dưới một ngọn núi đá cao, Bác gọi là núi Các Mác. Câu chuyện ngày đầu tiên Bác về nước vẫn còn được lưu truyền rất phổ biến ở nơi đây. Số là, sau cái đêm đầu tiên nghỉ lại tại nhà một đồng bào Nùng có cảm tình với cách mạng, hôm sau Máy Lỳ (người chủ nhà) dẫn Bác và mấy đồng chí vừa về nước, theo một con đường nhỏ chạy ngoằn ngoèo qua rừng, lên một ngọn núi đá. Từ bờ suối trèo lên phải qua một đoạn dốc khá dài, cây cối rậm rạp thì mới lên tới cửa hang. Hang không rộng lắm, có hai ba ngách nhỏ. Trong một ngách có tảng đá khá to, bằng phẳng, sau này mọi người gác cây rồi rải lá lên làm giường nằm. Gần đấy, một con suối nhỏ chảy quanh các tảng đá, rồi đổ xuống phía dưới, tung những bọt nước trắng xóa. Máy Lỳ bảo: “Ở đây mọi người gọi hang này là Cốc Bó, có nghĩa là đầu nguồn!”.

Hôm nay, tại khu di tích này, hang Cốc Bó vẫn còn đây. Núi Các Mác vẫn sừng sững uy nghi như một biểu tượng thành đồng của cách mạng. Suối Lênin trong vắt, uốn lượn bao quanh chân núi tạo nên phong cảnh non nước hữu tình. Và đây, cột mốc 108, nơi chứng kiến những giây phút thiêng liêng đầu tiên khi Người trở về sau 30 năm bôn ba ở nước ngoài để tìm đường cứu nước… Trong tâm thức chúng tôi vẫn thấy bồi hồi, xúc động, dường như Người xưa, cảnh cũ vẫn còn đây!

Người đi rừng núi trông theo bóng Người…

Khi đặt bước chân đầu tiên lên mảnh đất Cao Bằng, chúng tôi đã ngay lập tức cảm nhận được tình cảm quý trọng lớn lao của đồng bào dân tộc thiểu số nơi đây dành cho Bác. Tại Bến xe TP.Cao Bằng, khi biết chúng tôi là nhà báo, đang muốn đi thực tế tại những nơi in dấu chân của Bác, Ma Anh Tuấn, người dân tộc Tày, vốn là một tài xế lái xe chuyên tuyến đã chủ động đề nghị đưa chúng tôi đi. Chàng thanh niên này bảo, sẽ “cúp tua”, đưa chúng tôi về nhà nghỉ ngơi, ăn uống, sau đó lấy chiếc xe 7 chỗ để chở đi cho tiện. Điều này đã khiến chúng tôi hết sức bất ngờ nhưng sau đó mới hiểu, không chỉ anh Tuấn mà tất cả đồng bào nơi đây, khi nhớ đến Bác Hồ, đều bày tỏ lòng kính trọng và sẵn sàng làm những điều như thế. Thực tế, trên đường đi đến những nơi in dấu chân Người ở Cao Bằng, chúng tôi được nghe nhiều câu chuyện từ đồng bào các dân tộc truyền lại cho nhau kể về Bác bằng một tình cảm rất đặc biệt, thiêng liêng. Khi về Pác Bó, lúc thì người dân gọi Bác là già Thu, khi lại gọi Người là ông Ké. Ông Ké theo tiếng địa phương, chỉ người già, là cái tên mà bà con nơi đây gọi Bác với sự tôn kính nhưng lại hàm chứa sự gần gũi, mộc mạc, giản dị của Người.

Ngày ấy, ông Ké, già Thu trong bộ quần áo nâu của người dân tộc Nùng hòa mình vào cuộc sống của đồng bào các dân tộc và cảnh vật nơi đây một cách tự nhiên. Có chuyện kể rằng, thuở ấy, dưới ách áp bức của giặc Pháp, người dân nơi đây nghèo lắm, nhà cửa xơ xác hoang tàn, cháo ngô cũng không đủ ăn, áo rách cũng không có mặc. Thế rồi, năm 1941 có một ông khách lạ, dáng cao gầy nhanh nhẹn về đến vùng này. Ông dạy bảo những điều hay lẽ phải cho bọn trẻ, ông giúp đỡ những người già, ông quan tâm đến tất cả mọi người nên ai cũng yêu cũng quý, gọi ông bằng cái tên thân mật: “ông Ké”. Còn Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã từng viết: “Từ trang phục đến lời nói, việc làm. Lúc thổi cơm, ngồi câu cá, khi tắm suối, ngủ rừng... Bác hòa hợp với tất cả mọi người. Không thấy một nét gì khác lạ, cách biệt, ở một người vốn là đại diện của quốc tế cộng sản, đã từng dự Đại hội Tua, từng tiếp xúc với nhiều nhà lãnh đạo nổi tiếng trên thế giới...”.

Trong những ngày đầu hoạt động cách mạng đầy khó khăn, gian khổ, Người cùng ăn, cùng ở với đồng bào các dân tộc ở Pác Bó. Vì thế, tình cảm của Bác đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở đây hết sức chân thành, không chỉ là tình cảm của vị lãnh tụ đối với đồng bào cả nước mà còn là sự tri ân đối với đồng bào đã đùm bọc, chở che Người trong những tháng ngày gian lao, vất vả. Sau này, trong một bức thư gửi đồng bào Cao Bằng, Bác viết: “Tôi luôn nhớ đến những ngày tôi công tác ở tỉnh ta. Cùng mấy đồng chí trong tỉnh, trèo đèo lội suối, ở núi nằm hang… Anh em no đói có nhau, sướng khổ cùng nhau, đồng lòng một chí. Do đó mà đào tạo nên những cán bộ quân sự và chính trị. Tôi không bao giờ quên được trong những ngày gian nan cực khổ đó, đồng bào trong tỉnh ta, các cụ già, các chị em phụ nữ, anh em nông dân, các em thanh niên, các cháu nhi đồng, ai cũng hăng hái giúp đỡ. Mặc dầu Tây và Nhật thẳng tay khủng bố, nó đốt làng, nó phá nhà, nó bắt người, nhưng đồng bào vẫn kiên quyết giúp đỡ cách mệnh. Đồng bào Thổ, đồng bào Nùng, đồng bào Mán, đồng bào Mèo cho đến anh em Hoa kiều người thì giúp chúng tôi ăn, kẻ thì cho chúng tôi áo, có những đồng bào nhịn ăn, nhịn mặc, bán trâu, bán ruộng để giúp chúng tôi làm cách mệnh. Thật là quý hóa vô cùng…”.

Trên đường trở về TP.Cao Bằng, ngồi cạnh chúng tôi là một cô giáo trẻ người dân tộc Tày. Nhà ở thành phố nhưng cô lại đi dạy học tận trong bản sâu, ở lại Hà Quảng, nửa tháng mới về một lần. Hỏi chuyện về Bác Hồ, mắt cô giáo trẻ này bỗng ánh lên rồi say sưa kể cho chúng tôi những câu chuyện giống như huyền thoại mà cô từng được nghe nhiều lần từ những người già kể lại. Rồi cô khẽ đọc một câu thơ quen thuộc: Người về với Bác đường xuôi/ Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người/ Nhớ ông cụ mắt sáng ngời/ Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường!.../ Nhớ chân Người bước lên đèo/ Người đi rừng núi trông theo bóng Người…

THÀNH SƠN

 

 

Chia sẻ bài viết
Tags
Bác Hồ

LƯU Ý: BDO sẽ biên tập ý kiến của bạn đọc trước khi xuất bản. BDO hoan nghênh những ý kiến khách quan, có tính xây dựng và có quyền không sử dụng những ý kiến cực đoan không phù hợp. Vui lòng gõ tiếng việt có dấu, cám ơn sự đóng góp của bạn đọc.

Gửi file đính kèm không quá 10MB Đính kèm File
Quay lên trên