Bà là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng, huân chương cao quý nhất của Nhà nước CHXHCN Việt Nam. Lịch sử dân tộc Việt Nam mãi mãi còn ghi nhận: Bà cũng là người nữ đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên của đất Tiền Giang tham dự kỳ họp Quốc hội khóa I tại Hà Nội năm 1946. Bà có gần 20 năm đảm trách vai trò Chủ tịch Hội Phụ nữ Việt Nam. Bà là một huyền thoại của phụ nữ Việt Nam, phụ nữ miền Nam thành đồng Tổ quốc.
Người miền Nam quen gọi bà là "Má Mười Thập" - Nguyễn Thị Thập tên thật là Nguyễn Thị Ngọc Tốt, sinh ngày 10-10-1908 tại xã Long Hưng, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho (nay là Tiền Giang) trong một gia đình nông dân yêu nước.
Vào năm 17 tuổi bà đã phải gạt nước mắt lên xe hoa theo chồng vì hôn nhân định ước của cha mẹ. Lời ru con nghe buồn não nuột giữa những đêm khuya thanh vắng của người mẹ trẻ "ru chưa hết nửa câu hò", tưởng chừng như vĩnh viễn không bao giờ bước qua được ngưỡng cửa số phận nghiệt ngã. Quan niệm cổ hủ ngày đó bủa vây trùng trùng lên số phận người phụ nữ trong xã hội, nhưng đã không thể nào giam cầm cuộc đời bà được. Không cam chịu, bà gửi con gái bé bỏng lại cho nhà chồng nuôi, gạt nước mắt từ biệt con để quay trở lại quê nhà.
Cuộc hôn nhân đầu đời bất bình đẳng và bất công, bởi hủ tục và quan niệm phong kiến mang tính áp đặt đã gieo vào lòng bà những hạt mầm đầu tiên làm cơ sở cho sự nghiệp giải phóng phụ nữ, đấu tranh đòi bình đẳng của bà sau này.
Từ năm 20 tuổi, bà tham gia tổ chức Nông hội đỏ ở Long Hưng với nhiều hoạt động được đông đảo nông dân nghèo ủng hộ. Năm 1931, bà được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (lấy bí danh Mười Thập). Sau đó, bà thoát ly vận động xây dựng cơ sở Đảng ở các tỉnh Mỹ Tho, Tân An, Bến Tre. Năm 1933, bà được tổ chức Đảng phân công lên nội thành Sài Gòn hoạt động gây dựng phong trào. Đây là một nhiệm vụ rất khó khăn cho một nữ cán bộ từ nông thôn gia nhập đô thành.
Tại đây, bà đã thâm nhập vào cuộc sống của dân nghèo thành thị, xóm công nhân thợ thuyền, những người lao động nghèo khổ nhất trong xã hội để tuyên truyền, giác ngộ giai cấp, vận động họ đoàn kết lại, vùng lên đấu tranh đòi quyền lợi, đòi tự do dân tộc, gây dựng cơ sở mật để phục vụ cho cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài.
Tháng 4-1935, bà được bầu làm Ủy viên dự khuyết Xứ ủy Nam Kỳ và bị thực dân Pháp bắt giam đưa vào Khám Lớn - Sài Gòn. Nhưng vì không đủ chứng cứ nên bọn giặc buộc phải thả tự do cho bà. Từ quê hương Long Hưng, dấu chân của bà in khắp các tỉnh Tân An, Mỹ Tho, Bến Tre, Bạc Liêu, Vĩnh Long, Sa Đéc... làm nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục nhân dân và phụ nữ xóa bỏ những hủ tục mê tín dị đoan, những lề thói lạc hậu, chống lại chế độ "ngu dân".
Bà cùng với đồng chí Tám Cảnh (anh ruột của bà) và đồng chí Lê Văn Giác (chồng bà) thường xuyên tập hợp bí mật thanh niên tuyên truyền lý tưởng của Đảng, giai cấp. Tháng 4-1937, bà đã lãnh đạo nhân dân xã Long Hưng đấu tranh chống thuế thân, bị địch bắt giam 6 tháng, nhân dân kéo nhau biểu tình đòi trả tự do cho bà. Ra tù, bà lại tiếp tục hoạt động và chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ.
Bà Mười Thập truyền đạt Khởi nghĩa Nam Kỳ
Mùa hè năm 1940, lính Pháp được chỉ điểm bất ngờ kéo vào làng Long Hưng bắt đi biệt xứ một loạt đảng viên cách mạng nằm vùng, trong đó có anh trai bà và chồng bà, khi ấy bà đang mang thai. Năm 1941, địch đã xử tử chồng bà cùng nhiều cán bộ khác, nên bà phải tạm lánh sang Bến Tre để sinh con, tránh tai mắt bọn mật thám. Không bao lâu sau, bà đang làm nhiệm vụ ghi chép, thống kê số tiền vừa quyên góp để mua vũ khí, thì tên Rôbe Trần Chánh, một tên cò mật thám khét tiếng tàn ác, cùng đồng bọn ập tới bắt đưa đi. Trong giờ phút sinh tử ấy, bà chỉ lo những tài liệu mật và cả một số tiền lớn chưa kịp tiêu hủy bị địch phát hiện.
Đang suy tính, thì rất may gặp một em gái trạc 15-16 tuổi, Mười Thập nhanh trí nói: "Cháu nè, cô bị bắt rồi, cháu ở lại mạnh giỏi nghe". Qua em bé đó, Mười Thập có ý nhắn báo tin cho làng xóm biết mình đã bị bắt để các đồng chí của bà kịp thời lẩn tránh và tiêu hủy tài liệu. Khi em bé gái chạy về làng thông báo, mọi người tụ tập nhất tề xông lên giải vây cho bà.
Trên đường bọn lính áp giải Mười Thập ra xe ôtô để đưa về bốt Mỹ Tho, bất ngờ hàng trăm nông dân tay gậy, tay giáo mác từ nhiều ngả đường xông tới, đồng thanh hô lớn: "Phải bắt lấy tên Trần Chánh". Cả bọn lính hoảng sợ nhốn nháo, chạy thục mạng về phía ôtô. Trong lúc hỗn loạn, Mười Thập cùng tài liệu được cứu thoát an toàn. Sau lần ấy, bà bắt tay ngay vào việc chuẩn bị tiến hành Tổng khởi nghĩa (8-1945) ở các tỉnh Nam Bộ.
Tháng 4-1945, tại xã Thạnh Phú (Châu Thành -Tiền Giang), bà cùng với ông Trần Văn Di (Dân Tôn Tử) tổ chức hội nghị thành lập Xứ ủy Giải phóng. Bà liên lạc với ông Trần Văn Giàu để thống nhất hai Xứ ủy tăng cường sức mạnh chiến đấu, thống nhất. Đầu tháng 8-1945, bà được Xứ ủy cử đi dự Đại hội Quốc dân họp ở khu căn cứ Tân Trào (Tuyên Quang). Nhưng do đường xá quá xa xôi và khó khăn, ra đến Hà Nội thì Đại hội đã kết thúc.
Hưởng ứng cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám, Tổng Bí thư Trường Chinh giao trọng trách tiến hành việc thống nhất Đảng ở Nam Bộ. Cuối tháng 8-1945, bà Mười Thập về đến Mỹ Tho và bắt tay ngay vào việc thực hiện chỉ thị của cấp trên. Bà trúng cử Đại biểu Quốc hội tỉnh Mỹ Tho cùng với ông Ngô Tấn Nhơn lần thứ hai ra Hà Nội để dự cuộc họp Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Nhà lưu niệm bà Mười Thập tại di tích lịch sử Đình Long Hưng
Thời kỳ toàn quốc kháng chiến với cương vị là Ủy viên Trung ương Đảng, bà được phân công trở về miền Nam với nhiệm vụ đặc biệt do Chủ tịch Hồ Chí Minh giao phó là xây dựng và củng cố Đảng bộ Nam Bộ ngày càng vững mạnh. Năm 1947, bà được cử làm Đoàn trưởng Đoàn Phụ nữ Cứu quốc Nam Bộ, rồi Hội trưởng Hội Liên Hiệp Phụ nữ (LHPN) Nam Bộ.
Sau khi tập kết ra Bắc, bà được bầu làm Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam từ năm 1956 cho đến năm 1974. Năm 1975, bà được bầu làm Hội trưởng rồi Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam, Bí thư Đảng Đoàn phụ nữ Việt Nam, kiêm Trưởng ban Phụ vận Trung ương. Ở cương vị Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam, bà đã dành nhiều thời gian để đến với các cấp Hội cơ sở để tìm hiểu những tâm tư, nguyện vọng, khó khăn của chị em phụ nữ để kiến nghị với Đảng và Nhà nước xây dựng mới một bộ luật về hôn nhân và gia đình cho phù hợp với đạo đức xã hội chủ nghĩa, đấu tranh với những ý nghĩ bảo thủ, lạc hậu và phong kiến gia trưởng để giải phóng phụ nữ và thực hiện bình đẳng giới.
Bà cũng đã dành rất nhiều thời gian và tâm huyết với công tác đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ cán bộ nữ trong bộ máy đoàn thể chính quyền các cấp ngành. Bà cùng Trung ương Hội LHPN Việt Nam đã phát động nhiều phong trào thi đua yêu nước, đặc biệt phong trào "Phụ nữ ba đảm đang" lan tỏa ảnh hưởng đến nhiều nước trên thế giới như một điểm son chói lọi. Với những thành tích to lớn và xuất sắc đã đạt được, bà đã được Bác Hồ, Trung ương Đảng và Chính phủ tặng danh hiệu "Phụ nữ Việt Nam dũng cảm, đảm đang, chống Mỹ, cứu nước".
Năm 1985, bà được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng - Huân chương cao quý nhất của Nhà nước CHXHCN Việt Nam và danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Bà mất vào ngày 19/3/1996 tại TP HCM, hưởng thọ 88 tuổi. Theo di nguyện, bà mong muốn được an táng tại Nghĩa trang liệt sĩ tỉnh Tiền Giang, bên cạnh mộ chồng.
Theo CAND