Kể từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã trải qua 11 lần đại hội đại biểu toàn quốc. Mỗi kỳ đại hội Đảng là một mốc son lịch sử ghi nhận những thắng lợi, những thành tựu và những bài học kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam. Những thắng lợi, thành tựu và bài học kinh nghiệm ấy đều bắt nguồn sâu xa từ việc Đảng ta vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam và được thể hiện ở đường lối chính trị do các đại hội vạch ra trong mỗi giai đoạn cách mạng.
Bài 8: Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ I của Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 3-1935)
Đại hội lần thứ nhất của Đảng có ý nghĩa lịch sử quan trọng. Đại hội đánh dấu sự khôi phục được hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến địa phương, từ trong nước ra ngoài nước; thống nhất phong trào đấu tranh cách mạng của công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Đại hội được tiến hành trong bối cảnh lịch sử thế giới và trong nước có nhiều chuyển biến quan trọng. Trên thế giới, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế tiếp tục phát triển có lợi cho cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa. Những thành tựu to lớn về mọi mặt của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô có tác động to lớn tới phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa. Các nước tư bản chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng kinh tế sâu sắc. Ở Đông Dương, phong trào đấu tranh của công nhân đã từng bước hồi phục. Các tầng lớp nhân dân ở thành thị và nông thôn tham gia đấu tranh bằng nhiều hình thức như bãi khóa của học sinh, bãi thị của thương nhân, biểu tình chống thuế của nông dân.
Đồng chí Lê Hồng Phong (1902-1942), quê ở xã Hưng Thông, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Đảng diễn ra tại Ma Cao (Trung Quốc), đồng chí được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng |
Đảng cũng từng bước hồi phục sau các cuộc khủng bố trắng. Về tổ chức, Ban lãnh đạo hải ngoại đã liên hệ được với những cơ sở và tổ chức trong nước, đưa đảng viên ở nước ngoài về nước phối hợp với đảng viên trong nước hoạt động; tiếp tục củng cố và phát triển những cơ sở và tổ chức còn lại, đồng thời xây dựng những cơ sở mới.
Trên cơ sở phong trào cách mạng đã được phục hồi và sự chuẩn bị trước đó, từ ngày 27 đến 31-3-1935, Đại hội Đại biểu lần thứ nhất của Đảng đã họp tại một địa điểm ở phố Quan Công, Ma Cao (Trung Quốc) nhằm xác định đường lối cho thời kỳ đấu tranh mới khi Đảng đã phục hồi. Tham dự đại hội có 13 đại biểu, lúc này đồng chí Nguyễn Ái Quốc đang công tác ở Quốc tế Cộng sản, đồng chí Lê Hồng Phong dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ VII, nên không tham dự được.
Trên cơ sở đánh giá tình hình thế giới và trong nước, đại hội đề ra 3 nhiệm vụ chủ yếu của toàn Đảng trong thời gian trước mắt là củng cố và phát triển Đảng, tranh thủ quần chúng rộng rãi, chống chiến tranh đế quốc.
Về nhiệm vụ phát triển và củng cố Đảng, tăng cường phát triển Đảng vào các xí nghiệp, đồn điền, hầm mỏ, đường giao thông quan trọng, biến mỗi xí nghiệp thành một thành lũy của Đảng; đồng thời phải đưa nông dân lao động và trí thức cách mạng đã trải qua thử thách vào Đảng. Phải chăm lo tăng cường các đảng viên ưu tú xuất thân từ công nhân vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng. Để bảo đảm sự thống nhất về tư tưởng và hành động, các Đảng bộ cần tăng cường phê bình và tự phê bình đấu tranh trên cả hai mặt chống “tả” khuynh và “hữu” khuynh, giữ vững kỷ luật của Đảng.
Về “thâu phục quảng đại quần chúng”, đại hội chỉ rõ Đảng mạnh là căn cứ vào ảnh hưởng và thể lực của Đảng trong quần chúng. Nếu Đảng không mật thiết liên lạc với quần chúng, không được quần chúng tán thành và ủng hộ những khẩu hiệu của mình thì những nghị quyết cách mạng đưa ra vẫn chỉ là lời nói không. Muốn thâu phục quảng đại quần chúng thì nhiệm vụ trung tâm, căn bản, cần kíp trước mắt của Đảng là: Bênh vực quyền lợi của quần chúng; củng cố và phát triển các tổ chức quần chúng. Đại hội chủ trương tổ chức quần chúng chủ yếu theo hình thức bí mật, bất hợp pháp, đồng thời coi trọng những hình thức công khai, hợp pháp.
Phải đẩy mạnh chống chiến tranh đế quốc, vạch trần luận điệu “hòa bình” giả dối của bọn đế quốc, giải thích cho quần chúng thấy rõ chiến tranh đế quốc đã bắt đầu. Đại hội xem nhiệm vụ chống chiến tranh đế quốc bảo vệ Liên bang Xô Viết là nhiệm vụ của Đảng và của toàn thể cách mạng. Đại hội quyết định thành lập Ban Chống chiến tranh đế quốc do Đảng lãnh đạo, bao gồm đại biểu nhiều tổ chức cách mạng và cá nhân yêu nước, hòa bình và công lý.
Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng, gồm 13 ủy viên (9 ủy viên chính thức và 4 ủy viên dự khuyết), trong đó có các đồng chí: Lê Hồng Phong, Đình Thanh, Hà Huy Tập, Phùng Chí Kiên, Võ Nguyên Hiếu, Hoàng Đình Giong, Nguyễn Ái Quốc… đồng chí Lê Hồng Phong được bầu làm Tổng Bí thư (1).
Ban Chấp hành Trung ương nhất trí cử đồng chí Nguyễn Ái Quốc là đại biểu của Đảng bên cạnh Quốc tế Cộng sản. (Còn tiếp)
(Theo “Đảng và Hồ Chí Minh - cuộc song hành lịch sử”, NXB Lao Động năm 2013)
(1): Ngày 21-3-1935, Quốc tế Cộng sản đã phê chuẩn đề nghị của Ban chỉ huy ở nước ngoài cử đồng chí Lê Hồng Phong làm Tổng Bí thư (đề nghị ký ngày 20-12-1934)
Theo báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng gửi Quốc tế Cộng sản, đến tháng 3-1938, Đảng bộ Nam kỳ có 655 đảng viên, Đảng bộ Trung kỳ có 740 đảng viên và Đảng bộ Bắc kỳ có 202 đảng viên. Về tổ chức, ở ba kỳ đều có xứ ủy, ở Nam kỳ có 4 liên tỉnh ủy, 11 tỉnh ủy và 122 chi bộ, ở Trung kỳ có Tỉnh ủy Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi. Ở Bắc kỳ đã có Đảng bộ Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Phủ Lý, Thái Bình, Cao Bằng.
Năm 1939, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp đã thi hành chính sách kinh tế, chính trị, quân sự thời chiến. Mâu thuẫn giữa các dân tộc ở Đông Dương với bọn thực dân Pháp càng trở nên gay gắt. Vấn đề mất còn của các dân tộc ở Đông Dương đặt ra một cách cấp thiết.
Trong các ngày 6, 7, 8-11-1939, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp ở Bà Điểm, Hóc Môn, Gia Định dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Văn Cừ. Dự hội nghị có các đồng chí Lê Duẩn, Võ Văn Tần, Phan Đăng Lưu... Hội nghị quyết định điều chỉnh sự chỉ đạo chiến lược cách mạng ở Đông Dương cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Lúc này “bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm vô luận da trắng hay da vàng để tranh lấy giải phóng độc lập”. Vì vậy, tất cả mọi vấn đề cách mạng, kể cả vấn đề ruộng đất cũng phải nhằm mục đích ấy mà giải quyết.
Đại hội Đại biểu lần thứ I của Đảng là một sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu thắng lợi căn bản của cuộc đấu tranh gìn giữ và khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng từ cơ sở đến Trung ương.
Từ sau Đại hội lần thứ I đến Đại hội lần thứ II của Đảng (2-1951) biết bao chuyển biến to lớn diễn ra trên thế giới cũng như ở Đông Dương. Tháng 7-1936, sau khi dự Đại hội lần thứ VIII của Quốc tế Cộng sản về, đồng chí Lê Hồng Phong đã chủ trì Hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp ở Thượng Hải (Trung Quốc) để xác định chủ trương mới của Đảng về các vấn đề chiến lược và sách lược cách mạng ở Đông Dương. Hội nghị xác định nhiệm vụ trước mắt của Đảng và nhân dân Đông Dương là chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, chống phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do dân chủ, cơm áo, hòa bình. Để thực hiện nhiệm vụ đó, Đảng lập Mặt trận nhân dân phản đế rộng rãi bao gồm các giai cấp, các đảng phái, các đoàn thể chính trị và tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, các dân tộc ở xứ Đông Dương để cùng nhau tranh đấu đòi những quyền lợi hàng ngày, chống chế độ thuộc địa vô nhân đạo và để dự bị điều kiện cho cuộc vận động dân tộc giải phóng được phát triển. Hội nghị cũng quyết định chuyển hướng hình thức tổ chức bí mật, không hợp pháp sang các hình thức tổ chức và đấu tranh công khai, nửa công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp nhằm làm cho Đảng mở rộng liên hệ với quần chúng, giáo dục và tổ chức quần chúng đấu tranh bằng các khẩu hiệu đấu tranh thích hợp.
Ngày 30-10-1936, Đảng Cộng sản Đông Dương công bố Văn kiện chung quanh vấn đề chính sách mới của Đảng. Văn kiện nêu rõ: “Chiến lược của Đảng Cộng sản Đông Dương là phải làm cách mệnh tư sản dân quyền - phản đế và điền địa - lập chính quyền của công nông bằng hình thức Xô viết, để dự bị điều kiện đi tới cách mệnh xã hội chủ nghĩa, đó là mục đích cuối cùng của cuộc cách mệnh trong giai đoạn này”.