Lo ngại Anh, Mỹ lập kế hoạch chiến tranh đỏ với mục tiêu khống chế Đại Tây Dương. Trong khi đó, kế hoạch chiến tranh da cam là nhằm thâu tóm các lợi ích của Nhật Bản tại châu Á - Thái Bình Dương. Sau cùng, cả hai kế hoạch này đều là nền tảng cho chiến lược của Washington trong Thế chiến 2, giúp nước này và phe Đồng minh nói chung đánh bại phe Trục.
Chiến tranh da cam
Theo tài liệu Command Decisions từ Cục Văn khố quốc gia Mỹ, hải quân Nhật Bản không ngừng phát triển mạnh mẽ trong 2 thập niên 1910 và 1920. Khi đó, các bộ não quân sự tại Washington cảm nhận rằng Tokyo đang sẵn sàng cho một cuộc chiến tranh quy mô lớn trên khắp châu Á. Xa hơn, giới chức Mỹ còn lo ngại Nhật Bản đổ quân tấn công vùng Caribe giữa lúc Mỹ - Anh giao chiến trên Đại Tây Dương. Đầu thập niên 1920, Mỹ xem Nhật Bản là mối nguy đáng gờm ở Thái Bình Dương và có thể đẩy nước này vào thế “lưỡng bề thọ địch”. Vì thế, kế hoạch tấn công Nhật Bản được giới tướng lĩnh đặt mã màu da cam, khá gần màu đỏ vốn đại diện cho Anh, để thể hiện mức độ nguy cơ cao thứ hai.
Theo nhận định của các chuyên gia lúc đó, nếu đánh nhau với Nhật Bản thì Mỹ sẽ rất bất lợi vì vùng giao chiến cách xa nước này. Ngoài ra, chiến tranh với Tokyo sẽ hầu hết diễn ra ở trên biển nên công tác hậu cần rất quan trọng, trong khi cơ sở của Washington tại châu Á chưa đủ vững vàng. Vì thế, các nhà chính sách quân sự Mỹ vạch kế hoạch sớm củng cố các căn cứ ở phía tây Thái Bình Dương. Hải quân sẽ bổ sung thêm hàng trăm tàu chiến các loại đồn trú tại vịnh Manila của Philippines chứ không duy trì Trân Châu Cảng (Hawaii) là căn cứ lớn duy nhất. Từ Manila, hải quân nước này có thể tấn công lực lượng Nhật tại khu vực Đông và Đông Bắc Á.
Mặc dù vậy, căn cứ Trân Châu Cảng vẫn đóng vai trò then chốt nên được tăng cường hơn 100 tàu chiến cỡ lớn gồm thiết giáp hạm, tuần dương hạm, tàu ngầm. Về Kế hoạch chiến tranh da cam, cuốn War Plan Orange: The US strategy to Defeat Japan, 1897 - 1945 do Viện Nghiên cứu hải quân Mỹ phát hành cung cấp nhiều thông tin chi tiết. Theo đó, tàu ngầm trở thành khí tài chủ đạo để trấn giữ Thái Bình Dương, nhằm ngăn chặn Nhật tràn qua Caribe. Ngoài ra, đầu thập niên 1920, Mỹ không ngừng tìm cách tăng tầm hoạt động của các tàu chiến nước này vì căn cứ Hawaii cách vùng biển Nhật Bản đến 7.000 hải lý. Trong khi đó, tàu ngầm lớp S đóng vai trò chiến lược của hải quân Mỹ chỉ đạt tầm hoạt động 6.000 hải lý. Sau một thời gian nghiên cứu, đến năm 1926, Mỹ nâng cấp thành công 3 tàu ngầm lớp S với tầm hoạt động đến 18.000 hải lý. Ngoài ra, một chiếc khác cũng được cải thiện để có thể hoạt động trên 10.000 hải lý. Kể từ giữa thập niên 1920, tất cả các loại tàu chiến tối tân của Mỹ đều hiện diện ở Hawaii.
Lúc bấy giờ, căn cứ Trân Châu Cảng đóng vai trò quan trọng với lực lượng đồn trú rất lớn nên Washington từ sớm đã lo ngại nơi này có thể trở thành mục tiêu tấn công của Tokyo. Vì thế, giới chức quân sự Mỹ cũng hình thành một kế hoạch phòng thủ cho nhiều kịch bản tấn công khác nhau. Tất cả nhằm sẵn sàng cho một cuộc chiến tranh toàn diện với Nhật, lấy Thái Bình Dương làm trung tâm.
Thiết giáp hạm USS West Virginia bị Nhật bắn phá tại Trân Châu Cảng vào ngày 7.12.1941 - Ảnh: Navy.milNhảy vào Thế chiến 2
Giữa lúc Mỹ gần như hoàn thiện kế hoạch chiến tranh toàn cầu thì tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp. Thêm vào đó, các cuộc tuần hành ủng hộ phát xít vào những năm 1930 tại Mỹ khiến giới lãnh đạo dần nhận ra rằng Đức mới là nguy cơ lớn nhất trên thế giới. Đến giữa thập niên 1930, các bên ngày càng bước gần đến miệng hố chiến tranh với Đức, Nhật, Ý nổi lên là những thế lực hiếu chiến và tham vọng nên quan điểm của giới quân sự Mỹ từng bước thay đổi. Năm 1937, phái đoàn nước này đến Anh để thảo luận xây dựng kế hoạch hợp tác giữa hải quân 2 nước. Mặt khác, Washington chuyển các kế hoạch chiến tranh màu thành Kế hoạch Cầu vồng, vạch ra những kịch bản phản ứng với thế chiến, theo tài liệu Command Decisions.
Tuy nhiên, giữa lúc Mỹ vẫn chưa đưa ra quyết định cụ thể thì Nhật Bản bất ngờ tấn công Trân Châu Cảng. Như đã nói ở trên, giới chức từ sớm đã lập kế hoạch phòng thủ vững chắc cho Trân Châu Cảng nên việc nơi này trở thành mồi ngon cho các máy bay cảm tử của quân Nhật đã gây nhiều thắc mắc. Gần 70 năm sau khi Thế chiến 2 kết thúc, vẫn còn có ý kiến cho rằng Mỹ đoán trước sẽ bị tấn công nhưng chấp nhận hy sinh “con tép” nhằm tạo cớ nhảy vào vòng chiến và bắt “con tôm”.
Với việc chiến trường Thái Bình Dương đột ngột mở ra, Mỹ bắt buộc tăng cường hỗ trợ Anh và phe kháng chiến chống Đức tại Pháp để bảo đảm cầm chân phe Trục tại khu vực tây bán cầu và Đại Tây Dương. Sau đó, Thế chiến 2 đã diễn biến như lịch sử ghi nhận với chiến thắng cuối cùng thuộc về phe Đồng minh.
Nhờ các kế hoạch chiến tranh màu mà Mỹ gần như có sẵn chiến lược cho Thế chiến 2, nhanh chóng giành thế chủ động. Trong các trận chiến trên Thái Bình Dương với Nhật, căn cứ Trân Châu Cảng phát huy hiệu quả đúng như mong muốn trong kế hoạch chiến tranh da cam. Tương tự, các kế hoạch tấn công Anh, Pháp, Ý hay Bắc Phi là nền tảng cho các chiến dịch của quân Đồng minh, với Mỹ làm nòng cốt, tại châu Âu, bao gồm cả cuộc đổ bộ lên Normandy năm 1944.
Kế hoạch Cầu vồng
- Kịch bản 1: Mỹ sẽ đối mặt với chiến tranh toàn cầu mà không có bất cứ đồng minh lớn nào. Khi đó, quân đội sẽ nỗ lực bảo vệ Bắc Mỹ, đảm bảo những lợi ích sống còn tại đây bằng cách kiểm soát toàn bộ khu vực này; sau đó sẽ thiết lập vành đai phòng thủ chiến lược tại Thái Bình Dương kéo dài từ Alaska vòng qua Hawaii đến Panama.
- Kịch bản 2: Mỹ trở thành đồng minh của Anh, Pháp và tham gia hỗ trợ 2 đồng minh tại các chiến trường châu Âu và Đại Tây Dương. Trong trường hợp này, Anh và Pháp đóng vai trò phòng thủ cho Mỹ trên Đại Tây Dương để Mỹ rảnh tay phát động chiến tranh trên khắp Thái Bình Dương.
- Kịch bản 3: Mỹ sẽ không có đồng minh, nhưng Bắc Mỹ chỉ đóng vai trò vành đai phòng thủ. Đụng độ sẽ bùng nổ tại Thái Bình Dương và đây là chiến trường trọng tâm.
- Kịch bản 4: Mỹ cũng không có đồng minh. Nước này sẽ triển khai lực lượng trên khắp tây bán cầu và chuyển quân xuống tận Nam Mỹ ngay khi có cơ hội. Hơn thế nữa, vành đai Thái Bình Dương không chỉ đóng vai trò phòng thủ mà còn là bàn đạp để tấn công Nhật Bản. Điểm cốt lõi của kịch bản này là các bên đều thương vong nặng nề và Washington sẽ giữ thế “ngư ông đắc lợi”.
- Kịch bản 5: Mỹ liên minh cùng Anh, Pháp, hỗ trợ mạnh mẽ hơn cho 2 đồng minh tại mạn đông Đại Tây Dương, châu Âu và cả châu Phi. Cùng lúc, vành đai Thái Bình Dương cũng được siết chặt. Chờ đến khi liên minh Anh, Mỹ và Pháp thắng lợi tại châu Âu thì 3 nước sẽ tập trung toàn bộ lực lượng tấn công Nhật Bản. Đây chính là kịch bản gần nhất với diễn biến thật sự trong Thế chiến 2, chỉ khác là địch thủ của Mỹ - Anh - Pháp ngoài Nhật còn có Đức và Ý.
Theo TNO