Các tai biến sản khoa thường gây tử vong mẹ

Cập nhật: 22-08-2012 | 00:00:00

Tai biến sản khoa (TBSK) luôn là vấn đề được mọi người quan tâm. Bác sĩ (BS) Phạm Ngọc Thủy, Giám đốc Trung tâm Chăm sóc sức khỏe sinh sản tỉnh, cho biết, các nguyên nhân chính gây tử vong mẹ thường gặp trong TBSK, đó là: xuất huyết (băng huyết), tiền sản giật, vỡ tử cung (VTC) và nhiễm trùng...

Băng huyết sau sinh (BHSS) hiện nay vẫn là một TBSK thường gặp nhất. Lượng máu mất trên 1% trọng lượng cơ thể có thể gây nguy hiểm cho tính mạng (thông thường là từ 500gram trở lên trong vòng 24 giờ sau sinh). Tuy nhiên, mức độ nguy hiểm của BHSS không chỉ tùy thuộc đơn thuần vào lượng máu mất, mà còn tùy thuộc vào thể trạng của sản phụ, như tình trạng thiếu máu mãn tính do sốt rét, nhiễm giun móc, dinh dưỡng kém. Nguyên nhân gây BHSS thường do VTC, tức là cơ tử cung không co lại tốt để siết chặt các mạch máu, khiến máu vẫn tiếp tục chảy ra. Tử cung không co hồi tốt có thể do sót nhau trong lòng tử cung hay do chất lượng cơ tử cung kém (thường thấy trong trường hợp sinh đẻ nhiều lần, bị u xơ tử cung hay đa thai, đa ối...). Ngoài ra, BHSS có thể do tổn thương ở đường sinh dục như rách cổ tử cung, rách âm đạo, tầng sinh môn... gặp trong các trường hợp sinh khó, sinh thủ thuật hay sinh quá nhanh. Rối loạn về đông máu cũng gây BHSS. Theo BS Thủy, dự phòng BHSS đòi hỏi trình độ chuyên môn và sự theo dõi sát sản phụ của người đỡ đẻ để phát hiện và xử lý kịp thời tình huống khi mới chớm xảy ra. Một trong những biện pháp dự phòng mà người dân có thể thực hiện được đó là sinh đẻ có kế hoạch, vì sinh nhiều lần là một trong những nguyên nhân chính gây VTC. 

Các thai phụ cần thăm khám thai định kỳ để có thể dự phòng TBSK

VTC có thể xảy ra trước sinh (trong lúc đang mang thai) hoặc ngay trong lúc sinh. Theo BS Thủy, nhóm nguyên nhân lớn thứ nhất gây VTC là do chất lượng tử cung kém, khiến tử cung không chịu nổi khối thai hay cuộc chuyển dạ. Những sẹo mổ cũ ở tử cung do lần mổ lấy thai trước đó, mổ bóc nhân xơ tử cung, khâu thủng tử cung do nạo phá thai... chính là nguyên nhân gây VTC trước sinh và VTC giai đoạn này lại thường khó phát hiện hơn là VTC trong lúc sinh. Tử cung bị rạn nứt ở chỗ vết sẹo rồi toác rộng ra. Đẻ nhiều lần hay đã từng sinh đôi, sinh ba làm cho tử cung bị nhão, thành tử cung mỏng và yếu cũng dễ dẫn đến VTC (65% các trường hợp VTC xảy ra trên các sản phụ đã đẻ từ 3 - 6 lần). Nhóm nguyên nhân thứ hai là những nguyên nhân gây đẻ khó trong lúc chuyển dạ, dẫn đến chuyển dạ kéo dài, cơn co tử cung dồn dập để cố đẩy thai ra ngoài mà thai vẫn không thể ra được khiến đoạn dưới tử cung phình căng, dãn mỏng rồi bị xé ra. Cũng theo BS Thủy, đẻ khó có thể do mẹ, như: khung chậu hẹp hoặc méo, có các khối u tiền đạo như u xơ tử cung làm cản trở đường tiến của thai nhi trong quá trình chuyển dạ. Đẻ khó còn có thể do thai, như: thai quá to gây bất tương xứng giữa khung chậu và thai nhi, hoặc thai bị não úng thủy, bụng cóc và thường là do ngôi kiểu thế của thai không tốt như ngôi ngược, ngôi ngang... Ngoài ra, các thủ thuật sản khoa được thực hiện không đúng chỉ định, không đúng kỹ thuật, như: nội xoay kéo thai, giác hút, forceps... đều rất dễ gây tổn thương cho tử cung, gây VTC. BS Thủy cho biết, dự phòng VTC nhờ thăm khám thai định kỳ nhằm phát hiện các loại đẻ khó và có chế độ theo dõi cẩn thận với các sản phụ có sẹo mổ cũ. Tuy nhiên, khuynh hướng hiện nay các sản phụ thích mổ lấy thai để đỡ đau đẻ dù không có chỉ định. Điều này sẽ làm tăng nguy cơ cho những lần có thai sau do sẹo mổ cũ. Do đó, nếu không có lý do gì cản trở thì sinh thường qua đường âm đạo là hợp tự nhiên nhất. Sinh đẻ có kế hoạch cũng giúp giảm nguy cơ này vì đẻ nhiều lần làm cho tử cung bị nhão, mỏng và yếu đi.

Tiền sản giật (TSG) là tình trạng huyết áp cao với sự hiện diện của đạm trong nước tiểu, có thể có kèm phù hoặc không. TSG thường xảy ra khi mang thai được hơn 20 tuần. Tuy nhiên, TSG có thể xảy ra sớm hơn trong trường hợp đa thai và thai trứng. Nguyên nhân gây tử vong của TSG là tai biến mạch máu não, suy tim, suy hô hấp, suy thận cấp. Sản giật là biến chứng cấp tính của TSG, là tình trạng co giật liên tục thành từng cơn, có thể tử vong nếu không được chữa trị kịp thời. Theo BS Thủy, TSG nhẹ là khi thai phụ có huyết áp cao trên 140/90 hoặc huyết áp tâm thu tăng trên 15mmHg và huyết áp tâm trương trên 30mmHg so với huyết áp lúc trước khi mang thai nếu sản phụ có cao huyết áp sẵn từ trước. Đối với TSG nặng thì huyết áp tâm trương trên 110mmHg, đạm trong nước tiểu có thể lên đến 5gram trong 24 giờ. TSG nhẹ và nặng đều có thể dẫn đến sản giật. Các dấu hiệu trở nặng của TSG là phù tăng (biểu hiện bằng tăng cân nhanh), nhức đầu nặng, hoa mắt, đau bụng vùng gan, buồn nôn và nôn, tiểu ít; đo huyết áp thấy tăng cao; xét nghiệm máu thấy có cô đặc máu, giảm tiểu cầu, tăng creatinin. Tuy nhiên, khó đoán trước đến lúc nào thì TSG sẽ biến thành sản giật. TSG có thể được dự phòng hoặc giảm bớt các biến chứng nhờ khám thai tốt để phát hiện và xử lý kịp thời các tình huống.

Nhiễm trùng (NT) là một tai biến thường gặp trong sản khoa do vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể qua vết thương nơi nhau bám hay qua các sang chấn ở đường sinh dục do cuộc sinh gây ra. NT thường gặp trong phá thai phạm pháp (không an toàn) do thực hiện không đúng kỹ thuật gây thủng tử cung, do không bảo đảm vô trùng hoặc do sót nhau, sót các phần của thai... BS Thủy cho biết, trong cuộc sinh, các yếu tố thuận lợi cho NT hậu sản là tình trạng chuyển dạ kéo dài, vỡ ối sớm, xuất huyết nhiều, bị rách ở đường sinh dục, bị sót nhau hay có các thủ thuật sản khoa. Vi khuẩn lây bệnh có thể lây từ tay của người hộ sinh, từ những dụng cụ sinh đẻ hay có sẵn trong đường sinh dục. NT có thể từ những hình thái nhẹ đến những hình thái nặng đe dọa đến tính mạng. Nhẹ nhất có viêm tấy ở chỗ cắt hay rách tầng sinh môn, rách âm hộ, âm đạo, cổ tử cung. Viêm tử cung cũng là hình thái nhiễm trùng nhẹ, lúc này người mệt mỏi, có sốt, sản dịch có mùi hôi. Nguyên nhân thường do sản dịch không thoát ra ngoài được do tử cung gập góc bất thường hoặc bị sót nhau, nhiễm trùng ối... Theo BS Thủy, nếu không điều trị hữu hiệu ở giai đoạn này thì viêm tử cung sẽ dẫn đến các biến chứng trầm trọng hơn, như: viêm phúc mạc chậu, viêm phúc mạc toàn bộ, nhiễm trùng huyết. Một khi đã bị các biến chứng này thì tỷ lệ tử vong rất cao. Tổng trạng suy sụp nặng, mê man, sốt cao, lạnh run, sản dịch có mùi hôi thối, nhiều cơ quan khác cũng bị tổn thương do vi trùng lan tràn trong máu đi khắp cơ thể. Dự phòng NT bằng cách giữ vệ sinh sạch sẽ bộ phận sinh dục. Do đó, cần phát hiện sớm để điều trị ngay khi NT còn nhẹ, khu trú. Những người muốn nạo phá thai, cần đến các cơ sở y tế có đầy đủ phương tiện và điều kiện vô trùng tốt để tránh xảy ra những trường hợp đáng tiếc.

CẨM LÝ

 

Chia sẻ bài viết

LƯU Ý: BDO sẽ biên tập ý kiến của bạn đọc trước khi xuất bản. BDO hoan nghênh những ý kiến khách quan, có tính xây dựng và có quyền không sử dụng những ý kiến cực đoan không phù hợp. Vui lòng gõ tiếng việt có dấu, cám ơn sự đóng góp của bạn đọc.

Gửi file đính kèm không quá 10MB Đính kèm File
Quay lên trên