Việt Nam đã kiềm chế tốt đại dịch và đang tập trung phát triển kinh tế. (Ảnh: TTXVN phát)
Tờ New York Times ngày 13/10 đăng bài viết: “Is Vietnam the Next Asian Miracle?" - Liệu Việt Nam có phải điều thần kỳ mới của châu Á? - của tác giả Ruchir Sharma, chiến lược gia trưởng toàn cầu của Bộ phận quản lý đầu tư của ngân hàng đầu tư đa quốc gia Morgan Stanley.
Trong vòng vài ngày sau khi Trung Quốc công bố trường hợp đầu tiên mắc COVID-19, Việt Nam đã huy động nhiều nguồn lực để ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh. Việc cô lập nhanh chóng các ổ dịch đã giúp tỷ lệ tử vong do COVID-19 ở Việt Nam nằm trong số 4 nước thấp nhất thế giới.
Tác giả nhận định việc kiềm chế đại dịch cho phép Việt Nam nhanh chóng mở cửa lại các doanh nghiệp và được dự báo là nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới trong năm 2020. Trong khi nhiều quốc gia vẫn đang hứng chịu những suy giảm kinh tế to lớn và phải nhờ cứu trợ từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Việt Nam đang tăng trưởng với tỷ lệ hàng năm khoảng 3%. Thậm chí ấn tượng hơn, sự tăng trưởng của Việt Nam được thúc đẩy bởi thặng dư thương mại kỷ lục, bất chấp sự sụp đổ của thương mại toàn cầu.
Sau Chiến tranh Thế giới thứ Hai, “những điều thần kỳ châu Á” - đầu tiên là Nhật Bản, sau đó là vùng lãnh thổ Đài Loan (Trung Quốc), Hàn Quốc và gần đây nhất là Trung Quốc - đã vươn lên thoát nghèo bằng cách mở cửa cho thương mại và đầu tư và trở thành các cường quốc sản xuất để xuất khẩu.
Trong suốt những năm phát triển bùng nổ, các nước và vùng lãnh thổ này đã tạo ra mức tăng trưởng xuất khẩu hàng năm khoảng gần 20% - gần gấp đôi mức trung bình của các quốc gia có thu nhập thấp hoặc trung bình vào thời điểm đó.
Việt Nam đã duy trì tốc độ tương tự trong suốt ba thập kỷ. Ngay cả khi thương mại toàn cầu sụt giảm trong những năm đầu tiên của thế kỷ 21, xuất khẩu của Việt Nam cũng đã tăng trưởng 16% mỗi năm. Cho đến nay đây là tốc độ nhanh nhất trên thế giới và gấp ba lần mức trung bình của các nền kinh tế mới nổi.
Trong khi các quốc gia mới nổi khác chi mạnh tay cho phúc lợi xã hội trong một nỗ lực nhằm xoa dịu cử tri thì Việt Nam lại dành nguồn lực cho xuất khẩu, xây dựng đường sá, các bến cảng để đưa hàng hóa ra nước ngoài và xây dựng các trường học để đào tạo công nhân.
Chính phủ đã đầu tư khoảng 8% Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) mỗi năm để thực hiện các dự án xây dựng mới và hiện được xếp hạng cao hơn về chất lượng cơ sở hạ tầng so với bất kỳ nước nào khác trong giai đoạn phát triển tương tự.
Việt Nam cũng hướng dòng tiền của các nhà đầu tư nước ngoài theo hướng tương tự. Trong vòng 5 năm qua, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã đạt mức trung bình hơn 6% GDP của Việt Nam, tỷ lệ cao nhất so với bất kỳ quốc gia mới nổi nào. Phần lớn trong số đó dành cho việc xây dựng các nhà máy sản xuất và cơ sở hạ tầng liên quan và hầu hết hiện nay vốn FDI đến từ các quốc gia châu Á, bao gồm Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc. Điều này cho thấy "những điều thần kỳ cũ" đang giúp xây dựng một điều thần kỳ mới.
Việt Nam đã trở thành một điểm đến ưa thích đối với các nhà sản xuất xuất khẩu. Thu nhập bình quân đầu người hàng năm ở Việt Nam đã tăng gấp 5 lần kể từ cuối những năm 1980 lên mức gần 3.000 USD/người, nhưng chi phí lao động vẫn chỉ bằng một nửa so với Trung Quốc và lực lượng lao động thường được giáo dục tốt so với mức thu nhập của họ.
Nguồn lao động có kỹ năng đó đang giúp Việt Nam bước lên nấc thang mới, có thể nhanh hơn bất kỳ đối thủ nào, để sản xuất ngày càng tăng các sản phẩm tinh vi. Ngành hàng công nghệ đã vượt qua ngành hàng dệt may để trở thành lĩnh vực xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam trong năm 2015, và đang trên con đường trở thành ngành hàng chiếm tỷ trọng lớn trong thặng dư thương mại kỷ lục trong năm nay.
Khi nhiều nước có xu hướng tăng cường bảo hộ thương mại Việt Nam ký kết hơn một chục hiệp định thương mại tự do, trong đó có Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-Liên minh châu Âu (EVFTA).
Liệu Việt Nam có thể duy trì sự thành công này, bất chấp những thách thức tiềm tàng như dân số, thương mại toàn cầu...? Câu trả lời là có thể. Trong 5 năm qua, không một quốc gia lớn nào có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu nhanh hơn Việt Nam.
Có thể nói, trên bất kỳ con đường phát triển nào cũng đều tiềm ẩn những nguy cơ. Tuy nhiên bây giờ, Việt Nam giống như phép màu từ một thời kỳ đã qua, đang hướng đến xuất khẩu để vươn lên sự thịnh vượng./.
Theo TTXVN