Trả lời pháp luật

Cập nhật: 15-09-2014 | 08:53:42

Hỏi: Tôi đăng ký thường trú tại phường Hiệp Thành. Đầu tháng 8-2014, tôi sinh con nhưng chưa có điều kiện làm thủ tục đăng ký khai sinh cho bé. Xin cho biết, thời hạn đăng ký khai sinh là bao lâu? Nếu đăng ký sau thời hạn đó có được không?

NGUYỄN THỊ B. (TP.Thủ Dầu Một)

Trả lời: Điều 14 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27-12-2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch quy định trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày sinh con; cha, mẹ có trách nhiệm đi khai sinh cho con; nếu cha, mẹ không thể đi khai sinh, thì ông, bà hoặc những người thân thích khác đi khai sinh cho trẻ. Ngoài ra, tại Điều 43 nghị định này quy định việc sinh chưa đăng ký trong thời hạn quy định tại Điều 14 của nghị định này thì phải đăng ký theo thủ tục đăng ký quá hạn.

Khoản 1 Điều 27 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24-9-2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã (viết tắt là Nghị định số 110/2013/NĐ-CP) quy định phạt cảnh cáo đối với người có trách nhiệm đăng ký khai sinh cho trẻ em mà không thực hiện việc đăng ký đúng thời hạn quy định.

Căn cứ quy định trên, nếu bà chưa có điều kiện làm thủ tục đăng ký khai sinh cho con thì chồng bà (nếu không thể đi khai sinh được thì cha chồng, mẹ chồng, cha ruột, mẹ ruột của bà hoặc những người thân thích khác) liên hệ UBND phường Hiệp Thành làm thủ tục đăng ký khai sinh cho con của bà. Thời hạn đăng ký khai sinh là 60 ngày, kể từ ngày bà sinh con. Nếu quá thời hạn này, bà hoặc những người có trách nhiệm đăng ký khai sinh (như vừa nêu trên) vẫn có quyền làm thủ tục đăng ký khai sinh quá hạn cho con của bà. Tuy nhiên, việc đăng ký khai sinh quá hạn có thể bị xử phạt với hình thức phạt cảnh cáo.

Hỏi: Vợ chồng tôi có đăng ký kết hôn năm 2002. Năm 2004, vợ chồng tôi chuyển đến xã Bình Nhâm, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương (nay là phường Bình Nhâm, TX.Thuận An, tỉnh Bình Dương) sinh sống. Một năm sau, chồng tôi về TP.Hồ Chí Minh làm việc và từ đó cho đến nay, chồng tôi ít khi về nhà với lý do: thường xuyên đi công tác. Đến tháng 7-2014, trong một lần lên thăm chồng, tôi nghe hàng xóm nói “chồng tôi đang chung sống và có kết hôn với cô C.”. Sau khi liên hệ UBND phường 3, quận Bình Thạnh để hỏi thì được cán bộ cho biết: chồng tôi và cô C. có làm thủ tục đăng kết kết hôn tại phường. Ngoài ra, cán bộ còn cho biết chồng tôi có giấy xác nhận tình trạng hôn nhân của UBND xã nơi thường trú xác nhận là chồng tôi chưa đăng ký kết hôn. Việc chồng của tôi đăng ký kết hôn với cô C. là có vi phạm pháp luật? Nếu có thì xử lý thế nào?

TRẦN NGỌC T. (TX.Thuận An)

Trả lời: Điểm a Điều 48 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP quy định: phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác; chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ.

Theo như trình bày của bà, chồng bà đăng ký kết hôn với cô C. khi đang có vợ là bà (có đăng ký kết hôn). Do vậy, chồng của bà, cô C. (nếu biết rõ chồng bà đang có vợ) đã có hành vi vi phạm như trên, có thể bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng. Ngoài ra, với việc chồng bà được xác nhận chưa đăng ký kết hôn trong giấy xác nhận tình trạng hôn nhân thì chồng bà có thể có một trong các hành vi vi phạm sau đây và có thể bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng (Điểm b và c Khoản 2 Điều 30 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP):

- Cam đoan không đúng về tình trạng hôn nhân để làm thủ tục cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân;

- Sử dụng giấy tờ giả để làm thủ tục cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân.

Trường hợp việc kết hôn giữa chồng bà và cô C. gây hậu quả nghiêm trọng hoặc sau khi bị xử phạt hành chính về hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng mà còn vi phạm thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng (Điều 147 Bộ luật Hình sự). Hậu quả nghiêm trọng có thể làm cho gia đình của một hoặc cả hai bên tan vỡ dẫn đến ly hôn, vợ hoặc chồng, con vì thế mà tự sát... (Điểm a Mục 3.2 Thông tư liên tịch số 01/2001/ TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 25-9-2001 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng các quy định tại Chương XV “Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình” của Bộ luật Hình sự năm 1999).

Bà có quyền tự mình hoặc đề nghị Viện Kiểm sát yêu cầu Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh hủy việc kết hôn trái pháp luật giữa chồng bà và cô C. (Khoản 3 Điều 15 Luật Hôn nhân - Gia đình; Khoản 1 Điều 28, Điểm b Khoản 2 Điều 33 và Điểm g Khoản 2 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011).

SỞ TƯ PHÁP BÌNH DƯƠNG

Chia sẻ bài viết

LƯU Ý: BDO sẽ biên tập ý kiến của bạn đọc trước khi xuất bản. BDO hoan nghênh những ý kiến khách quan, có tính xây dựng và có quyền không sử dụng những ý kiến cực đoan không phù hợp. Vui lòng gõ tiếng việt có dấu, cám ơn sự đóng góp của bạn đọc.

Gửi file đính kèm không quá 10MB Đính kèm File
intNumViewTotal=649
Quay lên trên