Hỏi: Bản án dân sự sơ thẩm số 03/DS-ST tuyên bà B. phải trả cho tôi số tiền 100 triệu đồng, thời gian tự nguyện thi hành án là 01 tháng. Nhưng hết thời gian tự nguyện thi hành án mà bà B. vẫn không trả tiền cho tôi vì bà B. cho là bà không có tài sản, thửa đất bà đang ở là đứng tên chồng bà và phần đất này có trước thời kỳ hôn nhân.
Tuy nhiên theo tôi được biết 30 căn phòng trọ có trên đất là do hai vợ chồng bà xây dựng sau khi kết hôn. Từ ngày bản án có hiệu lực tôi đã làm đơn yêu cầu thi hành án, đến nay đã hơn 03 tháng mà chưa có quyết định thi hành án và cũng không có bất cứ thông tin gì từ Chấp hành viên. Khi tôi hỏi Chấp hành viên thụ lý giải quyết vụ việc của tôi thì chấp hành viên hỏi ngược lại tôi là cô có chứng minh được bà B. có tài sản không.
Tôi muốn biết: Tôi là người được thi hành án, vậy tôi có nghĩa vụ chứng minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án cho cơ quan thi hành án không?
NGUYỄN THỊ A. (TX.Tân Uyên)
Trả lời:
Theo Khoản 1 Điều 7 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014, quy định quyền của người được thi hành án như sau:
“1. Người được thi hành án có các quyền sau đây:
a) Yêu cầu thi hành án, đình chỉ thi hành một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định, áp dụng biện pháp bảo đảm, áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án được quy định trong Luật này;
b) Được thông báo về thi hành án;
c) Thỏa thuận với người phải thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về thời gian, địa điểm, phương thức, nội dung thi hành án;
d) Yêu cầu tòa án xác định, phân chia quyền sở hữu, sử dụng tài sản; yêu cầu tòa án giải thích những điểm chưa rõ, đính chính lỗi chính tả hoặc số liệu sai sót; khởi kiện dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong trường hợp có tranh chấp về tài sản liên quan đến thi hành án;
đ) Tự mình hoặc ủy quyền cho người khác xác minh, cung cấp thông tin về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án;
e) Không phải chịu chi phí xác minh điều kiện thi hành án do Chấp hành viên thực hiện;
g) Yêu cầu thay đổi Chấp hành viên trong trường hợp có căn cứ cho rằng Chấp hành viên không vô tư khi làm nhiệm vụ;
h) Ủy quyền cho người khác thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình;
i) Chuyển giao quyền được thi hành án cho người khác;
k) Được miễn, giảm phí thi hành án trong trường hợp cung cấp thông tin chính xác về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án và trường hợp khác theo quy định của Chính phủ;
l) Khiếu nại, tố cáo về thi hành án”.
Căn cứ quy định nêu trên, chị A. có quyền cung cấp thông tin chính xác về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, chứ không có nghĩa vụ chứng minh điều kiện thi hành án của bà B.
Bên cạnh đó, Điều 44 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014, quy định : “Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày hết thời hạn tự nguyện thi hành án mà người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì Chấp hành viên tiến hành xác minh; trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì phải tiến hành xác minh ngay”. Theo quy định này thì việc xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án là trách nhiệm của Chấp hành viên.
Hỏi: Năm 2013, tôi khởi kiện bà Y. đòi nợ số tiền 400 triệu đồng. Tòa án tuyên bà Y. phải trả nợ cho tôi nhưng bà Y. không có tài sản để thi hành án. Nay tôi phát hiện lúc cha mẹ bà Y. còn sống có tài sản 1.021m2 đất tại phường Chánh Mỹ và đã chia cho 11 người con nhưng giao cho em của bà Y đại diện đứng tên. Vậy, trong trường hợp này tôi có thể tiếp tục yêu cầu thi hành án được không? Nếu được thì phải làm như thế nào?
TRẦN THỊ X. (TP.Thủ Dầu Một)
Trả lời:
Trong trường hợp này, bà X. cung cấp thông tin chính xác về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án là bà Y. cho Chấp hành viên và tiếp tục yêu cầu thi hành án.
Theo Khoản 1 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014, quy định việc “Xác định, phân chia, xử lý tài sản chung để thi hành án” như sau:
“Trường hợp chưa xác định được phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để thi hành án thì Chấp hành viên phải thông báo cho người phải thi hành án và những người có quyền sở hữu chung đối với tài sản, quyền sử dụng đất biết để họ tự thỏa thuận phân chia tài sản chung hoặc yêu cầu tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo mà các bên không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận vi phạm quy định tại Điều 6 của Luật này hoặc thỏa thuận không được và không yêu cầu tòa án giải quyết thì Chấp hành viên thông báo cho người được thi hành án có quyền yêu cầu tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự.
Hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo mà người được thi hành án không yêu cầu tòa án giải quyết thì Chấp hành viên yêu cầu tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự.
Chấp hành viên xử lý tài sản theo quyết định của tòa án”.
Ngoài ra, bà X. cũng có quyền gửi đơn đến TAND TP.Thủ Dầu Một để “Yêu cầu xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản, phân chia tài sản chung để thi hành án theo quy định của Luật Thi hành án dân sự” đối với phần tài sản bà Y. được hưởng thừa kế từ cha mẹ (theo Khoản 9 Điều 27, Khoản 2 Điều 39 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015).
SỞ TƯ PHÁP