Cơ quan quản lý thuế chịu trách nhiệm bảo mật thông tin của khách hàng

Cập nhật: 05-01-2021 | 07:59:33

Nghị định 126/2020/ NĐ-CP hướng dẫn một số điều của Luật Quản lý thuế như người đứng đầu cơ quan thuế được đề nghị ngân hàng cung cấp các thông tin giao dịch qua tài khoản, số dư, số liệu giao dịch của khách hàng… Hiện quy định này đang nhận được nhiều sự quan tâm trong dư luận. Xung quanh vấn đề này, phóng viên Báo Bình Dương đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Minh Hải, Phó cục trưởng Cục Thuế Bình Dương.

 Cán bộ Chi cục Thuế TP.Thủ Dầu Một hướng dẫn chính sách thuế cho người nộp thuế

 - Ông có thể cho biết cơ sở nào để cơ quan chức năng ban hành nghị định mới này?

- Thực tế hiện nay những cá nhân bán hàng online, kinh doanh thương mại điện tử (TMĐT) có doanh thu lớn xuất hiện ngày càng nhiều. Đây là thách thức với cơ quan thuế trong việc quản lý hình thức kinh doanh này. Giao dịch TMĐT có đặc điểm khó kiểm chứng thông tin nhận dạng, dễ dàng xóa bỏ, thay đổi nên khó khăn trong việc nắm bắt. Khó xác định chính xác người nộp thuế, doanh thu phát sinh, quy mô hoạt động kinh doanh cũng như toàn bộ quá trình giao dịch… Đặc biệt, cá nhân kinh doanh qua mạng xã hội không hiện diện tại địa điểm cố định, lại có trình độ công nghệ thông tin nhất định, cơ quan thuế khó xác định được doanh thu kinh doanh thực tế nếu chỉ căn cứ các thông tin giao dịch trên mạng xã hội.

Đây là cơ sở để luật hóa quy định quản lý thuế đối với hoạt động này và Nghị định số 126 hướng dẫn chi tiết một số điều của Luật Quản lý thuế. Cơ quan quản lý nhà nước có trách nhiệm cung cấp các thông tin cho cơ quan quản lý thuế để thực hiện quản lý thuế (Khoản 2 Điều 26 Nghị định 126), như: Thông tin các hoạt động TMĐT, nhượng quyền thương mại, nội dung thông tin giấy phép hoạt động TMĐT, thông tin liên quan trong quản lý thuế đối với tổ chức, cá nhân có hoạt động TMĐT. Thông tin đối với các khoản thu liên quan đến đất đai, tài sản gắn liền với đất, thông tin giấy phép cấp quyền khai thác tài nguyên, sản lượng khai thác trong năm theo từng giấy phép. Thông tin các hoạt động cung cấp, sử dụng dịch vụ internet, thông tin trên mạng, trò chơi điện tử trên mạng; cung cấp thông tin liên quan đối với hoạt động quảng cáo trên mạng; hoạt động mua bán sản phẩm, dịch vụ công nghệ thông tin trên môi trường mạng, kinh doanh dựa trên nền tảng số…

- Trong trường hợp nào, cơ quan thuế yêu cầu ngân hàng cung cấp thông tin giao dịch qua tài khoản, thưa ông?

- Tại điểm a.5, Khoản 2, Điều 26 Nghị định số 126 quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý thuế, có hiệu lực thi hành từ ngày 5-12- 2020 đã quy định rõ: Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam phối hợp Bộ Tài chính chỉ đạo, hướng dẫn ngân hàng thương mại (NHTM), tổ chức tín dụng (TCTD), tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán được NHNN Việt Nam cấp phép trong việc kết nối, cung cấp thông tin với cơ quan quản lý thuế liên quan đến giao dịch qua ngân hàng của tổ chức, cá nhân; phối hợp với cơ quan quản lý thuế trong thực hiện biện pháp cưỡng chế thuế; phối hợp với Bộ Tài chính và các bộ, ngành có liên quan trong việc thiết lập cơ chế quản lý, giám sát các giao dịch thanh toán xuyên biên giới trong TMĐT, kinh doanh dựa trên nền tảng số và các dịch vụ khác với tổ chức, cá nhân ở Việt Nam… và cung cấp thông tin khác theo quy định tại Luật Quản lý thuế và pháp luật liên quan.

Cơ quan thuế sẽ yêu cầu cung cấp thông tin đối với vụ việc, đối tượng cụ thể theo trình tự, chủ yếu là phục vụ cho thanh tra, kiểm tra và được cơ quan thuế bảo mật tuyệt đối. Thông tin do NHTM cung cấp hỗ trợ cho cơ quan thuế thực hiện các biện pháp quản lý, đồng thời thông qua đăng ký mã số thuế đối với khách hàng là cơ sở dữ liệu để cơ quan thuế quản lý thu thuế đối với hoạt động kinh doanh TMĐT.

- Ngành thuế có trách nhiệm gì với những thông tin cá nhân, nhất là các giao dịch liên quan đến tiền tệ do ngân hàng cung cấp?

- Khoản 2, Điều 30, Nghị định số 126 quy định, NHTM có trách nhiệm cung cấp các thông tin theo đề nghị của cơ quan quản lý thuế. NHTM cung cấp thông tin tài khoản thanh toán của từng người nộp thuế, bao gồm: Tên chủ tài khoản; số hiệu tài khoản theo mã số thuế đã được cơ quan quản lý thuế cấp; ngày mở tài khoản, ngày đóng tài khoản; việc cung cấp thông tin về tài khoản theo quy định trên được thực hiện lần đầu trong thời gian 90 ngày kể từ ngày nghị định có hiệu lực; việc cập nhật các thông tin về tài khoản được thực hiện hàng tháng trong 10 ngày của tháng kế tiếp; phương thức cung cấp thông tin được thực hiện dưới hình thức điện tử… Cơ quan quản lý thuế có trách nhiệm bảo mật thông tin và hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự an toàn của thông tin theo quy định của Luật Quản lý thuế.

- Xin cảm ơn ông!

 THANH HỒNG (thực hiện)

Chia sẻ bài viết

LƯU Ý: BDO sẽ biên tập ý kiến của bạn đọc trước khi xuất bản. BDO hoan nghênh những ý kiến khách quan, có tính xây dựng và có quyền không sử dụng những ý kiến cực đoan không phù hợp. Vui lòng gõ tiếng việt có dấu, cám ơn sự đóng góp của bạn đọc.

Gửi file đính kèm không quá 10MB Đính kèm File
intNumViewTotal=1166
Quay lên trên