Quyền lực của nhân dân không phải là một khẩu hiệu

Cập nhật: 07-02-2014 | 00:00:00

Hiến pháp 2013, Điều 2 ghi: “1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. 2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. 3. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Như vậy, về xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam đã được thể hiện minh bạch trong Hiến pháp 2013.

Quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân

Trong Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc đến những nội dung rất quan trọng trong bản Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ năm 1776 và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cộng hòa Pháp năm 1789; đồng thời phân tích quá trình đấu tranh anh dũng và kiên cường của nhân dân ta để đánh đổ xiềng xích thực dân gần 100 năm, gây dựng nên nước Việt Nam độc lập và “Trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và thực sự đã trở thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

Mang đến nghị trường tiếng nói của người dân, đại biểu Huỳnh Ngọc Đáng của Bình Dương, phát biểu: “Những người nông dân vất vả nhiều nhất lại không có vai trò gì trong các khâu xuất khẩu lúa gạo. Còn lợi ích thì bị rút tỉa gần hết bởi các công ty xuất khẩu gạo độc quyền và thương lái, kết quả là người nông dân nghèo vẫn hoàn nghèo và ngày càng ít thiết tha với việc trồng lúa. Đề nghị Chính phủ xem xét vấn đề này. Nông dân còn nghèo thì không thể có nông thôn mới thực sự và nông nghiệp chưa thể cất cánh vì thiếu động lực”.

Sự kiện có ý nghĩa lịch sử to lớn trên đây đã chứng minh, quan điểm “quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân” không phải mới xuất hiện mà đã được đưa ra cách đây hơn 200 năm trước trong bản Tuyên ngôn của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và Cộng hòa Pháp. Năm 1776, những người đại diện cho nhân dân 13 bang ở Mỹ đã khẳng định “Chính phủ phải được thành lập gồm những người lấy quyền lực chính đáng của mình từ sự nhất trí của nhân dân, rằng bất cứ khi nào Chính phủ trở thành nguyên nhân phá hủy mục đích đó thì nhân dân có quyền thay đổi hoặc xóa bỏ và thiết lập Chính phủ mới” (Các văn kiện quốc tế về quyền con người. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Trung tâm Nghiên cứu quyền con người, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, trang 9, trang 15).

Sau đó, vào năm 1789 những người đại diện nhân dân Pháp thành lập Quốc hội lại tuyên bố rằng: “Mục đích của các tổ chức chính trị là gìn giữ các quyền tự nhiên và không thể tước bỏ của con người... Nguồn gốc của mọi quyền lực về bản chất nằm trong quốc gia xã hội có quyền bắt buộc mọi công chức phải báo cáo về công việc quản lý của họ” (Các văn kiện quốc tế về quyền con người, sách đã dẫn, trang 16, trang18). Như vậy, tuy cách diễn đạt có khác nhau nhưng trong hai bản Tuyên ngôn đều có một nội dung quan trọng là quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân.

Để khẳng định, bảo đảm và thực hiện quyền lực Nhà nước của nhân dân ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa tư tưởng “dân là gốc” trong truyền thống chính trị ở Việt Nam và những tư tưởng hiện đại về dân chủ, đặc biệt là những tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Và điều này, một lần nữa được hiến định ở Hiến pháp 2013: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”.

“Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã diễn đạt rất dễ hiểu như sau: “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do dân làm chủ” (Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, trang 452). “Nhân dân” và “dân” là các thuật ngữ mà Người thường dùng có cùng một nội dung được xác định rõ ràng: “Nhân dân là 4 giai cấp công, nông, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những phần tử khác yêu nước” (Hồ Chí Minh, sđd, tập 7, trang 219). Do đó, Người đã xác định: “Nước ta là nước dân chủ - Bao nhiêu lợi ích đều là vì dân - Bao nhiêu quyền hạn đều là của dân - Công việc đổi mới và xây dựng là trách nhiệm của dân - Chính quyền từ xã đến Chính phủ do dân cử ra - Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên - Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” (Hồ Chí Minh, sđd, tập 5, trang 698).

Trong một bài viết khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại chỉ rõ, Chính phủ cộng hòa dân chủ của ta “là đầy tớ chung của nhân dân, từ Chủ tịch toàn quốc đến làng. Dân là chủ thì Chính phủ phải là đầy tớ... Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ” (Hồ Chí Minh, sđd, tập 5, trang 60). Thật khó có cách diễn đạt khác ngắn gọn, đơn giản hơn quan điểm “quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân” và “Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết.

Hiến pháp 2013, Điều 6 ghi: “Nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân (HĐND) và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”; Điều 7: “1. Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. 2. Đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND bị cử tri hoặc Quốc hội, HĐND bãi nhiệm khi không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”. Với nội dung hiến định này, trong khoa học pháp lý, người ta gọi đây là hai hình thức nhân dân sử dụng để thực hiện quyền lực Nhà nước của mình: dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp.

Vấn đề hiện nay là với những hiến định của Hiến pháp 2013, theo đề nghị của TS. Vũ Đức Khiển (nguyên Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội), Quốc hội cần thiết cho rà soát để sửa đổi những quy định trong pháp luật về bầu cử nhằm tạo ra tính “ganh đua” giữa các ứng cử viên, khắc phục tình trạng “quân đỏ, quân xanh” trong hiệp thương và ấn định danh sách ứng cử viên. Bên cạnh đó, Quốc hội đã ban hành Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội nhưng chưa có những quy định cụ thể về quy trình, thủ tục, trình tự để cử tri thực hiện quyền bãi nhiệm đại biểu Quốc hội.

“Cần có một quy trình, trình tự, thủ tục để cử tri thực hiện quyền bãi nhiệm đối với đại biểu “không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”. Về ý nghĩa và tầm quan trọng của chế định bãi nhiệm, V.I.Lênin đã chỉ cho chúng ta thấy rằng “mọi cơ quan được bầu ra hay mọi hội nghị đại biểu đều có thể coi là có tính chất dân chủ chân chính và đại biểu thực sự cho ý chí của nhân dân, khi nào quyền bãi nhiệm của cử tri đối với những người trúng cử được thừa nhận và được áp dụng”, TS. Vũ Đức Khiển phát biểu. (V.I.Lênin toàn tập, tập 35, NXB Tiến bộ. Matxcơva, 1978, trang 126)”.

MINH TRÍ

Chia sẻ bài viết

LƯU Ý: BDO sẽ biên tập ý kiến của bạn đọc trước khi xuất bản. BDO hoan nghênh những ý kiến khách quan, có tính xây dựng và có quyền không sử dụng những ý kiến cực đoan không phù hợp. Vui lòng gõ tiếng việt có dấu, cám ơn sự đóng góp của bạn đọc.

Gửi file đính kèm không quá 10MB Đính kèm File
intNumViewTotal=585
Quay lên trên