Kỷ niệm 35 năm ngày mất anh hùng lực lượng vũ trang, nhà thơ, chiến sĩ Huỳnh Văn Nghệ: Một vị tướng văn võ song toàn

Cập nhật: 08-02-2012 | 00:00:00

“Từ độ mang gươm đi  mở cõi

Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long”

Đọc những câu thơ trên ai cũng biết, cũng nhớ đến vị tướng tài ba Huỳnh Văn Nghệ. Hôm qua (7-2), nhân dịp 35 năm ngày mất của ông, đông đảo những nhà cách mạng lão thành; lãnh đạo các tỉnh, thành; những đồng chí, đồng đội... đã đến thắp nén hương cho thi tướng Huỳnh Văn Nghệ (anh Tám Nghệ). Một người không chỉ là nhà chỉ huy quân sự tài ba mà còn là một nhà báo, nhà thơ với nhiều tác phẩm khá nổi tiếng.  Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Mai Thế Trung thắp nén hương tỏ lòng tri ân đến thi tướng Huỳnh Văn Nghệ

35 năm... 

Sáng qua (7-2), tại Khu tưởng niệm Huỳnh Văn Nghệ ở ấp 5, xã Thường Tân, Tân Uyên, gia đình đã long trọng tổ chức kỷ niệm 35 năm ngày mất của anh hùng lực lượng vũ trang, nhà thơ, chiến sĩ Huỳnh Văn Nghệ. Khách đến dự ngoài thân bằng quyến thuộc còn có đông đảo những nhà cách mạng lão thành; lãnh đạo các tỉnh, thành; những đồng chí, đồng đội có thời gian sống, chiến đấu với anh Tám Nghệ và nhiều học sinh giỏi được nhận giải thưởng Huỳnh Văn Nghệ của Bình Dương, Đồng Nai.  Ông Huỳnh Văn Nam, Trưởng ban Liên lạc truyền thống kháng chiến Thủ Biên trao học bổng Huỳnh Văn Nghệ cho các học sinh nghèo hiếu học

35 năm đã trôi qua đủ để người ta quên đi nhiều thứ, nhưng với những đồng chí, đồng đội của anh Tám Nghệ ngày xưa thì hình như không bao giờ thay đổi. Thắp nén nhang tưởng nhớ, họ đua nhau kể về huyền thoại, huyền tích của ông. Những câu chuyện mà có lẽ với họ không bao giờ quên và không ai thay thế được. Bà Nguyễn Thị Minh Tâm, Phó Trưởng ban Liên lạc truyền thống kháng chiến Thủ Biên xúc động nói: “Tôi biết anh Tám Nghệ khi tôi mới là cô bé 14 tuổi. Với tôi, anh Tám Nghệ không chỉ là một tướng tài, lỗi lạc; anh luôn là một người anh, một người hết lòng thương yêu, bảo bọc đàn em. Có lẽ vì tình cảm đó mà tôi ngày càng trưởng thành, giữ vững niềm tin, cống hiến hết mình cho cách mạng”.

Còn với ông Trương Nam Sơn, Trưởng ban Liên lạc Tiểu đoàn 303 thì luôn giữ cho riêng mình kỷ niệm giữa ông và anh Tám Nghệ. Ông nói: “Nếu tính thời gian làm việc trực tiếp thì tôi làm lính cho anh Tám Nghệ khoảng 1 năm. Khi đó, tôi bao sô hết công việc phục vụ cho anh Tám Nghệ, từ công tác chuyên môn đến tạp vụ. Nói thật nếu chỉ là quan hệ giữa thủ trưởng và lính thì tôi không phục vụ tận tình anh Tám Nghệ đến như vậy. Ảnh xem tôi như em út, ngược lại với tôi ảnh như anh cả. Chúng tôi có khi chia nhau chén cơm, nằm chung 1 chiếc giường và đắp chung 1 cái chăn... Vì vậy dù thời gian có qua đi thì tình cảm tôi dành cho anh Tám Nghệ không có gì thay đổi”.

Mặc dù chỉ biết ông Tám Nghệ qua lời kể, sử sách và những tư liệu, hiện vật còn lại, thế hệ trẻ ngày nay cũng hết lòng kính trọng, tự hào, nhất là những ai may mắn sinh ra và lớn lên ở mảnh đất Chiến khu Đ anh hùng, cũng như được học ở ngôi trường mang tên của vị tướng tài này. Em Lâm Trần Lệ Quyên đến từ trường Huỳnh Văn Nghệ, huyện Trảng Bom, Đồng Nai tự hào nói: “Em rất tự hào khi được học dưới mái trường mang tên một vị tướng tài cả trong quân sự lẫn thơ ca. Vì vậy, bản thân em phải cố gắng học giỏi để xứng đáng là học sinh của ngôi trường thân yêu này”.

Một đời oanh liệt

Huỳnh Văn Nghệ sinh ngày 2-2-1914, tại làng Tân Tịch, tổng Chánh Mỹ Hạ, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc xã Thường Tân, Tân Uyên, Bình Dương). Ông là con thứ 7 trong gia đình. Tuy nhà nghèo, nhưng ông được hưởng một nền giáo dục rất tốt, được cha dạy dỗ về căn bản cả văn lẫn võ và được gia đình chăm lo ăn học đến nơi đến chốn. Là người thông minh học giỏi nên Huỳnh Văn Nghệ được nhận học bổng tại trường Trung học Petrus Ký Sài Gòn (nay là trường THPT Lê Hồng Phong) và sớm giác ngộ, tham gia các hoạt động cách mạng.

Từ năm 1932, ông luôn tìm cách giúp đỡ, bênh vực người nghèo, chống giặc Pháp xâm lược và bọn tay sai. Huỳnh Văn Nghệ tích cực tìm đến với cách mạng và đã được tuyên truyền về Đảng Cộng sản Đông Dương, rồi giác ngộ và tham gia vào các hoạt động do Đảng lãnh đạo. Những năm 1936-1939, ông tham gia phong trào Đông Dương Đại hội ở Sở Xe lửa Sài Gòn. Năm 1940, tham gia khởi nghĩa Nam kỳ. Cuộc khởi nghĩa thất bại, giặc Pháp điên cuồng đàn áp những người cộng sản, một số phải rút về rừng Tân Uyên hoạt động, ông lo việc tiếp tế đạn dược, thuốc men cho số đồng chí này.

Năm 1942, sau khi bị lộ, ông phải trốn sang Thái Lan và hoạt động trong phong trào Việt kiều yêu nước. Tại đây, ông tổ chức xuất bản tờ báo Hồn cố hương, kêu gọi kiều bào hướng về Tổ quốc, ủng hộ cách mạng. Năm 1944, Huỳnh Văn Nghệ về nước, bắt liên lạc với cách mạng và được đồng chí Trần Văn Giàu, Bí thư Xứ ủy Nam kỳ phân công lập căn cứ Đất Cuốc tại Tân Uyên, Biên Hòa; được kết nạp Đảng, lập Đoàn Cựu binh sĩ và tham gia tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945, trực tiếp tham gia chỉ huy cướp chính quyền ở Biên Hòa.

Tại đây, Huỳnh Văn Nghệ tổ chức xây dựng giải phóng quân Biên Hòa và trực tiếp làm chỉ huy trưởng. Căn cứ Tân Uyên được ông bố trí phòng ngự vững chắc, đã đảm nhiệm vai trò bảo đảm hậu cần cho lực lượng vũ trang của tỉnh và các tỉnh bạn theo lệnh của Khu trưởng Nguyễn Bình, đồng thời làm nhiệm vụ bảo vệ Khu bộ, tiếp liệu cho các công binh xưởng của khu, tích cực tham gia xây dựng các cơ quan quân, dân, chính của tỉnh.

Dưới sự chỉ huy của Huỳnh Văn Nghệ, không bao lâu sau, Tân Uyên trở thành một trong những căn cứ kháng chiến vững mạnh nhất ở Nam bộ. Đầu năm 1946, quân Pháp liên tiếp mở các trận tiến công lớn vào chiến khu Tân Uyên - Lạc An (Chiến khu Đ). Ngày 2-1-1946, Huỳnh Văn Nghệ chỉ huy lực lượng chủ công tham gia trận phản công lớn đầu tiên của Nam bộ do khu tổ chức đánh vào thị xã Biên Hòa.

Tháng 3-1948, Huỳnh Văn Nghệ nhận nhiệm vụ Khu bộ phó Khu 7, kiêm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 310. Ngày 1-3-1948, với cương vị chỉ huy trưởng, ông tham gia trận La Ngà - trận giao thông chiến lớn nhất ở Nam bộ kể từ ngày giặc Pháp tái chiếm nước ta. Sau trận này, Trung đoàn 310 được Bác Hồ khen thưởng Huân chương Chiến công hạng 2, Trung đoàn trưởng Huỳnh Văn Nghệ được Bác Hồ tặng thưởng một chiếc áo trấn thủ. Tháng 7-1948, thi hành lệnh của Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam bộ, trong hoàn cảnh hết sức nguy hiểm, Huỳnh Văn Nghệ một mình đến căn cứ Bình Xuyên, dùng lý lẽ và tình cảm thuyết phục được thủ lĩnh Bình Xuyên lúc bấy giờ là Lê Văn Viễn (Bảy Viễn) về dự hội nghị, giúp Xứ ủy và Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam bộ giải quyết được “vấn đề Bình Xuyên”, rất gay go lúc bấy giờ.

Cùng thời gian này, ông được bổ nhiệm làm Khu trưởng Khu 7. Trên cương vị mới, ông đã có nhiều đóng góp quan trọng trong việc xây dựng căn cứ mới của khu, thành lập bộ đội chủ lực Khu 7 (Bộ đội 303). Đặc biệt, ông nghiên cứu, tìm ra cách đánh tháp canh, giải quyết được sự bế tắc về chiến thuật ở Khu 7 lúc bấy giờ.

Năm 1950, sau khi sáp nhập Sài Gòn - Chợ Lớn vào Khu 7, ông giữ chức Phó Tư lệnh Khu 7. Năm 1951, khi hai tỉnh Thủ Dầu Một - Biên Hòa sáp nhập, ông là Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, kiêm Tỉnh đội trưởng Thủ Biên, chỉ huy nhiều trận đánh lớn bảo vệ Bộ Tư lệnh Nam bộ đóng ở Chiến khu Đ. Năm 1952, trong trận lụt “thế kỷ”, ông xông pha chỉ huy chống lụt ở Thủ Biên, bảo vệ được bộ đội và dân.

Sau thảm họa thiên tai đó, lợi dụng tình thế khó khăn của quân dân ta, địch huy động 11 tiểu đoàn tiến công vào Chiến khu Đ. Lực lượng của tỉnh chỉ có một tiểu đoàn nhưng dưới sự chỉ huy tài tình của Huỳnh Văn Nghệ đã anh dũng chiến đấu suốt 52 ngày đêm, tiêu diệt gần một tiểu đoàn địch, phá tan âm mưu gom dân của địch nhằm  tiêu diệt lực lượng ta.

Tháng 5-1953, ông được cử ra miền Bắc học và ở lại công tác gần 12 năm, trải qua các chức vụ: Trưởng phòng Thể dục thể thao, Cục phó Cục Quân huấn, Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục phó Tổng cục Lâm nghiệp.

Năm 1965, ông được điều động trở về Nam bộ, lần lượt giữ các chức vụ: Trưởng ban căn cứ Trung ương Cục miền Nam, Phó Bí thư Đảng ủy căn cứ Trung ương Cục miền Nam, Phó ban Kinh tài Trung ương Cục miền Nam, Trưởng ban Lâm nghiệp Trung ương Cục miền Nam.

Sau khi đất nước thống nhất, ông là Thứ trưởng Bộ Lâm nghiệp (về sau hợp nhất vào Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). Ông lâm bệnh và mất tại TP.HCM ngày 5-3-1977.

Huỳnh Văn Nghệ không chỉ là một nhà chỉ huy quân sự tài năng, kiên cường với cuộc đời hoạt động cách mạng oanh liệt, vẻ vang mà còn là một cây bút tràn đầy nhiệt huyết trong các hoạt động báo chí, văn hóa, văn nghệ, đặc biệt là ở lĩnh vực thơ ca. Qua các tác phẩm của ông, người đọc có thể hiểu thêm về quê hương, gia đình, cuộc đời binh nghiệp, văn nghiệp của ông, về cuộc chiến đấu gian khổ, trường kỳ, oanh liệt của nhân dân miền Đông Nam bộ.

Thu Thảo

 

Chia sẻ bài viết

LƯU Ý: BDO sẽ biên tập ý kiến của bạn đọc trước khi xuất bản. BDO hoan nghênh những ý kiến khách quan, có tính xây dựng và có quyền không sử dụng những ý kiến cực đoan không phù hợp. Vui lòng gõ tiếng việt có dấu, cám ơn sự đóng góp của bạn đọc.

Gửi file đính kèm không quá 10MB Đính kèm File
Quay lên trên