Địa đạo tam giác sắt: Một trang sử “chân trần, chí thép”

Cập nhật: 11-05-2013 | 00:00:00

Bài 6: Anh hùng Tư Cang kể chuyện tình báo

> Bài 1: Hào khí đất miền Đông> Bài 2: Hồi ức của những cựu binh> Bài 3: “Phong hỏa 2” - Sụp đổ một dã tâm> Bài 4: Xê-đa-phôn, mùa hè rực lửa!

> Bài 5: Trạm tình báo giữa lòng địa đạo

Ông Tư Cang, tức đại tá - Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Văn Tàu, người đã có hơn 10 năm bám trụ ở Củ Chi và vùng Tam giác sắt Tây Nam Bến Cát với nhiệm vụ được giao rất quan trọng là chỉ huy Cụm tình báo H63. Cuộc đời binh nghiệp của Tư Cang gắn liền với những chiến công huyền thoại của H63. Trong những năm chiến tranh ác liệt, người cụm trưởng này vẫn không ngại hy sinh, thường xuyên ra vào Sài Gòn, sào huyệt của quân thù để cùng với các điệp viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giữ vững đường dây liên lạc giữa Sài Gòn với cấp trên.

Ông Tư Cang (phải) trong lần nhận danh hiệu Anh hùng LLVTND

Khoảnh khắc sinh tử

Cuộc gặp gỡ giữa chúng tôi và ông Tư Cang diễn ra tại Sài Gòn trong những ngày tháng tư lịch sử. Năm nay, ông đã bước qua tuổi 85, nhưng trông rất khỏe mạnh. Ông vui vẻ hẳn lên khi biết chúng tôi đang thực hiện chuyên đề viết về Tam giác sắt. Ông nói: “Tôi tham gia cách mạng tháng 8, giành chính quyền ở quê nhà (Bà Rịa - Vũng Tàu) năm 17 tuổi, rồi sau đó vào ngành tình báo của tỉnh trong thời kỳ chống thực dân Pháp. Sang thời đánh Mỹ, tôi tiếp tục được tuyển mộ vào ngành tình báo quốc phòng Việt Nam. Duyên nợ nghề nghiệp đã cho tôi cơ hội gắn liền với mảnh đất miền Đông thân yêu. Ở quê tôi thời đó nghèo khắc nghiệt lắm, nên ngày đầu về công tác mật ở vùng Bến Cát, Bình Dương tôi vô cùng ấn tượng. Quê hương đây trù phú quá, những cánh đồng lúa vàng trĩu hạt, trái cây đầy vườn và những dòng nước trong xanh quanh năm. Nhưng rồi giặc đến, quê hương làng mạc đều xác xơ, biết bao đồng bào, chiến sĩ của ta đã ngã xuống trên mảnh đất gang thép này”.

Tư Cang (thứ 2 từ phải qua) trong buổi mít-tinh mừng ngày toàn thắng 30-4-1975 trước dinh Thống Nhất

Càng căm thù giặc, ông Cang một lòng kiên trung hướng về Tổ quốc, mặc cho nhiệm vụ của ông luôn luôn đối mặt với cái chết. Ông kể cho chúng tôi một câu chuyện về sự nguy hiểm của nghề tình báo như sau: Giữa tháng 11-1968, cấp trên có chỉ thị triệu tập Tư Cang từ Sài Gòn về căn cứ Bến Cát. Người phụ trách giao liên đưa Tư Cang đi là bà Tám Kiên. Thời kỳ này, các cán bộ công tác ở thành thường bị bắt trên đường ra, vào thành phố nên 2 người rất cẩn thận trong chuyến đi. Tám Kiên đề xuất, anh em mình đi theo đường 13 về Mỹ Phước, sau đó tối đến anh Hai Thương sẽ đột nhập ấp chiến lược Mỹ Phước vượt sông Thị Tính về căn cứ địa đạo An Thành, Phú An. Đồng ý với đề xuất của bà Tám Kiên, trưa hôm đó họ lấy honda nghi trang thành đôi vợ chồng từ Sài Gòn về đám giỗ ở quê. Hai người chạy xe bon bon trên đường 13, qua Lái Thiêu, chợ Búng rồi lên thẳng Thủ Dầu Một vẫn yên bình. Thế nhưng, khi còn cách Mỹ Phước khoảng 7km, Tư Cang bỗng thấy một tốp xe cảnh sát ngụy đỗ bên trái đường. Xe nào cũng có ăng-ten, lính đứng quây quần xung quanh, trên tay cầm vũ khí nhìn rất dữ tợn. Tư Cang nhận định, ngày thường không thấy địch sao hôm nay đông quá, gay go rồi đây! Một tên lính phóng ra mặt đường, lên đạn súng cạc-bin ra hiệu bắt chúng tôi dừng lại rồi nói: Xin lỗi ông cho coi giấy! Ông Cang kể lại: Tôi đưa tay lên túi lấy một xấp nhiều loại giấy và cố tình cho nó thấy giấy phép lái xe, thẻ chủ quyền ô tô, gắn máy và một số hóa đơn trong Sài Gòn. Nhưng tên cảnh sát chỉ cầm tấm thẻ kiểm tra lật lên xem mặt trước, mặt sau. Đột nhiên, nó cho tấm thẻ vào lòng bàn tay bóp mạnh rồi thả bung ra, làm đến mấy lần như vậy. Ông Cang nhớ, hồi năm 1966, khi ta làm giả thẻ kiểm tra để ông vào Sài Gòn công tác, cấp trên có nói với ông: chúng tôi cố gắng làm như thật nhưng giấy của ta vẫn có nhược điểm. Khi bóp mạnh chỉ nghe tiếng “rạo” còn giấy của địch bóp vào bung ra nghe rất êm. Nhớ lại chuyện ấy, ông Cang nghĩ chắc lần này mình bị lộ bài rồi, song 2 người vẫn rất bình tĩnh. Chợt tên lính nhìn thẳng vào mắt ông, hỏi gằn: Giấy này coi kỳ quá he! Tư Cang trả lời: Mấy ông cấp sao, tôi dùng vậy chớ kỳ gì đâu. Bất thình lình nó hỏi tiếp: Xin lỗi, ông thân tên gì? Ba tôi hả? Nguyễn Văn Muốn. Vẫn không buông tha, tên lính lại hỏi: Giấy cấp ngày mấy?... Thực ra đây là những cách hỏi “mẹo” của địch nhằm đánh vào tâm lý đối phương. Nhưng đối với Tư Cang thì việc đối phó với cách này quá dễ. Sự thật cha ông không phải tên Muốn mà đó là tên người cậu đã hy sinh. Ngày cấp thẻ ông nhớ rất kỹ, nhưng chỉ trả lời là cấp hình như vào đầu năm 1962. Vì nếu trả lời chính xác quá, địch sẽ hỏi ngay: Làm gì mà chịu khó học thuộc vậy?

Màn đấu trí với tên lính ranh mãnh vẫn chưa kết thúc. Nó nghi ngờ thực sự nên vào trình với sếp nó đang ngồi phía trong. Nhưng thật bất ngờ và không hiểu vì sao sau một lúc xem tới xem lui, người sĩ quan ngụy lên tiếng rầy la tên lính: Người Sài Gòn giấy như vậy chứ kỳ cái gì. Thả cho người ta đi. Vậy là Tư Cang và Tám Kiên thoát nạn trong gang tấc. Cho đến bây giờ, khi kể lại chuyện này ông Cang vẫn không sao hiểu được người sĩ quan ngụy hôm đó lại dễ dàng cho hai người đi êm vậy. Ông tâm sự: Có thể người sĩ quan đó là phe ta và cũng có thể họ có cảm tình với cách mạng nhưng vì hoàn cảnh buộc phải khoác áo ngụy mà thôi.

Cuộc rượt đuổi trên rừng biên giới

Ngoài những chiến công rực rỡ trong làng tình báo, trong những năm bám trụ ở đất miền Đông, Tư Cang cũng đã hoàn thành một nhiệm vụ rất quan trọng, đó là đuổi bắt một nhóm quân ta đào ngũ tập thể do M.L, một cán bộ cấp tiểu đoàn chỉ huy. Sự việc này vô cùng nghiêm trọng vì nếu để họ lọt về Sài Gòn, bị giặc khai thác sẽ lộ bí mật khu căn cứ Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy Miền. Về sau, ông Cang mới biết, để rủ rê thêm 29 chiến sĩ đi theo, M.L lập luận rất đơn giản: “Ở chi trên khu rừng già Campuchia này, phí cuộc đời thanh niên, hãy đi theo tao về miền Nam đánh Mỹ. Có phải hy sinh cũng nằm trên mảnh đất quê hương”. Mọi người nghe bùi tai, thế là đi.

Bằng mọi giá phải ngăn chặn M.L, trên giao cho Tư Cang chỉ huy chiến sĩ đuổi theo qua tận Campuchia để tìm tung tích. Sau nhiều ngày xuyên rừng tìm dấu vết, cuối cùng Tư Cang nắm được 30 quân nhân đang ẩn trong một cánh rừng. Nhưng ông chủ trương không được nổ súng gây đổ máu. Ý định của ông là dùng lý lẽ để mọi người hiểu và quay về. Ông một mình đi vào cánh rừng. Nghe ông M.L hô “bắn” nhưng lạ thay không ai lại nổ súng vào người cán bộ của mình. Tình đồng đội bao năm đã chiến thắng tất cả. Sau một hồi giải thích cho anh em biết rõ đúng sai, ông Cang quay về nơi khác đợi chờ mọi người hồi tâm chuyển ý. Đúng như dự tính, ngày hôm sau 29 quân nhân nghe lời dụ dỗ của M.L đã tìm gặp Tư Cang nhận lỗi. Về sau, các chiến sĩ này đều xung phong vào các chiến dịch ác liệt và phần lớn đều hy sinh. Riêng M.L vẫn ngoan cố nên Tư Cang phải dùng vũ lực vây bắt, sau đó đem ra xét xử tại tòa án binh. Ông Cang nói: với tội như M.L, cách mạng buộc phải tử hình, nhưng vì tình đồng chí đồng đội nên ông có kiến nghị giảm nhẹ cho anh ta. Sau giải phóng, M.L trở về từ trại giam và hòa nhập vào cuộc sống đời thường.

Bài cuối: Vang mãi bản hùng ca

KIẾN GIANG

Chia sẻ bài viết

LƯU Ý: BDO sẽ biên tập ý kiến của bạn đọc trước khi xuất bản. BDO hoan nghênh những ý kiến khách quan, có tính xây dựng và có quyền không sử dụng những ý kiến cực đoan không phù hợp. Vui lòng gõ tiếng việt có dấu, cám ơn sự đóng góp của bạn đọc.

Gửi file đính kèm không quá 10MB Đính kèm File
Quay lên trên