Luật An ninh mạng không cấm công dân sử dụng Facebook, Google

Cập nhật: 16-06-2018 | 08:23:10

Quốc hội vừa thông qua Luật An ninh mạng với 86,86% đại biểu đồng ý. Việc xây dựng và ban hành Luật An ninh mạng xuất phát từ bối cảnh tình hình an ninh mạng trong nước và yêu cầu bảo vệ an ninh quốc gia, bí mật Nhà nước, trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, phù hợp với thông lệ quốc tế và quy định của Hiến pháp...

Tuy nhiên, thời gian qua có nhiều thông tin không chính xác trên mạng Internet, mạng xã hội cho rằng Luật An ninh mạng sẽ tạo ra “rào cản kinh doanh”, “tăng chi phí cho doanh nghiệp”, “giấy phép con”...

Một số phần tử chống đối còn đăng tải thông tin lên mạng xã hội và các trang mạng có nội dung xấu, độc, xuyên tạc, cản trở việc thông qua đạo luật này.

Luật An ninh mạng giúp bảo đảm không gian mạng an toàn, lành mạnh (ảnh minh họa)

Trung tướng, Phó Giáo sư - Tiến sĩ Hoàng Phước Thuận, Cục trưởng Cục An ninh mạng, Bộ Công an khẳng định Luật An ninh mạng chỉ nghiêm cấm thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật trên không gian mạng, không có quy định nào cấm Facebook, Google hoặc các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.

Luật An ninh mạng không cấm hoặc ngăn cản quyền tự do ngôn luận, quyền bày tỏ quan điểm của công dân. Đạo luật này cũng không có quy định nào cấm công dân sử dụng các dịch vụ mạng xã hội như Facebook, Google... Luật An ninh mạng cũng không cấm công dân tham gia hoạt động trên không gian mạng hoặc truy cập, sử dụng thông tin trên không gian mạng và cũng không có quy định nào cấm công dân khởi nghiệp, sáng tạo hay trao đổi, triển khai ý tưởng sáng tạo của mình trên không gian mạng.

“Mọi người có thể yên tâm sử dụng Facebook, Youtube... nếu không vi phạm các điều cấm mà pháp luật quy định kể cả việc bày tỏ quan điểm cá nhân trên mạng xã hội. Tuy nhiên, nếu bày tỏ quan điểm cá nhân mà xúc phạm nhân phẩm danh dự của người khác, xúc phạm đến tôn giáo, dân tộc... thì đây là hành vi bị cấm. Luật An ninh mạng quy định các hành vi bị cấm để mọi người biết các hoạt động nào được pháp luật bảo hộ, hoạt động nào bị cấm để người sử dụng mạng không mắc vào vi phạm”, Trung tướng Hoàng Phước Thuận cho biết.

Các hành vi bị nghiêm cấm nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Mọi người đều phải chịu trách nhiệm trước các hành động, phát ngôn trên không gian mạng của mình nếu hành động, phát ngôn đó xâm phạm tới quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác.

Trước những đồn đoán, lo ngại vấn đề lạm quyền của lực lượng chức năng sau khi Luật An ninh mạng được thông qua, Trung tướng Thuận cho biết, đây là nội dung mà nhiều người không hiểu, không đọc kỹ luật và các thế lực thù địch lợi dụng sự thiếu hiểu biết này để kích động, gây hoang mang dư luận.

Cơ quan chuyên trách an ninh mạng chỉ giám sát hành vi vi phạm pháp luật trên không gian mạng. Bên cạnh đó, Luật An ninh mạng cũng có quy định trường hợp nếu người thực thi công vụ về an ninh mạng lạm dụng quyền hạn, xâm phạm quyền của cá nhân, tổ chức thì cũng bị xử lý nghiêm. “Vì thế chắc chắn không có lạm quyền ở đây”, Trung tướng Thuận nhấn mạnh.

Trung tướng Thuận cho biết thêm, Luật An ninh mạng đã quy định rõ chỉ trong trường hợp phục vụ điều tra, xử lý hành vi vi phạm pháp luật về an ninh mạng, lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng mới được quyền yêu cầu cung cấp thông tin người dùng. Hiện nay, có nhiều thông tin trên mạng internet cho rằng, Luật An ninh mạng yêu cầu doanh nghiệp phải cung cấp toàn bộ thông tin người dùng như thông tin cá nhân, thông tin riêng tư cho cơ quan chức năng là không chính xác.

Cục trưởng Cục An ninh mạng Hoàng Phước Thuận khẳng định không có quy định nào trong Luật An ninh mạng yêu cầu các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trên không gian mạng phải có giấy phép con mới được phép hoạt động. “Chắc chắn cơ quan chuyên trách an ninh mạng không cấp giấy phép con nào phát sinh sau khi Luật An ninh mạng có hiệu lực”, Trung tướng Thuận khẳng định và cho biết thêm ngoại trừ việc phối hợp với lực lượng chuyên trách xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trên không gian mạng và một số trách nhiệm được quy định cụ thể trong Điều 41 liên quan tới cảnh báo, khắc phục, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, các doanh nghiệp không phải chấp hành nghĩa vụ nào khác đối với hoạt động kinh doanh của mình.

Không có quy định nào trong Luật An ninh mạng quy định về hoạt động thành lập doanh nghiệp, khởi nghiệp, đầu tư, mua bán, kinh doanh của doanh nghiệp..

Trao đổi với báo chí bên hành lang Quốc hội, Ủy viên Thường trực Ủy ban về các vấn đề xã hội Lưu Bình Nhưỡng cho rằng, việc ban hành Luật An ninh mạng là cần thiết để tạo hành lang nhất định, chứ không tạo ra quá nhiều lối rẽ về an ninh. Ông Lưu Bình Nhưỡng cho rằng, thời gian này cần phải ủng hộ việc thông qua Luật An ninh mạng.

Trước câu hỏi nhiều người lo ngại, luật này ra đời sẽ khiến một số ông lớn như Facebook, Google rời bỏ Việt Nam, ông Lưu Bình Nhưỡng cho rằng “Tôi không nghĩ họ sẽ dịch chuyển, và sẽ rời khỏi Việt Nam vì họ sẽ phải cân nhắc. Việt Nam là thị trường lớn, thậm chí rất lớn trên thế giới, mang lại cho họ nhiều lợi ích. Vì vậy họ sẽ cân nhắc, và sẽ hợp tác với Nhà nước và củng cố thêm điều kiện của họ.

Và có lẽ, các quy định luật pháp của một quốc gia nào đó cũng giúp cho các nhà doanh nghiệp tầm cỡ xuyên quốc gia, lục địa điều chỉnh lại chính sách và chính bản thân họ cũng hoàn thiện hơn điều kiện của họ, đề ra giải pháp siêu đẳng hơn…”.

Luật An ninh mạng đã được Quốc hội biểu quyết thông qua sáng 12-6 với 423 trong tổng số 466 đại biểu có mặt tán thành (tỷ lệ 86,86%); 15 đại biểu không tán thành; 28 đại biểu không biểu quyết. Luật này gồm bảy chương, 43 điều quy định về hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trên không gian mạng; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.

An ninh mạng được định nghĩa là sự bảo đảm hoạt động trên không gian mạng không gây phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Bảo vệ an ninh mạng là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý hành vi xâm phạm trong lĩnh vực này.

 

Thiếu tướng, GS-TS. Nguyễn Minh Đức, Ủy viên Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội, Viện trưởng Viện Khoa học cảnh sát - Học viện Cảnh sát nhân dân, cho rằng “Theo báo cáo của Trung tâm Ứng cứu khẩn cấp máy tính Việt Nam trong năm 2017, các hệ thống thông tin tại Việt Nam đã phải hứng chịu khoảng 15.000 cuộc tấn công mạng, gồm khoảng 3.000 cuộc tấn công lừa đảo, 6.500 cuộc tấn công cài phần mềm độc hại và 4.500 cuộc tấn công thay đổi giao diện.

Trong đó, số cuộc tấn công vào hệ thống thông tin của các cơ quan Nhà nước có tên miền “.gov.vn” cũng lên tới hàng trăm. Năm 2017, thiệt hại do virus máy tính gây ra đối với người dùng Việt Nam đã lên tới 12.300 tỷ đồng (540 triệu USD), vượt xa mốc 10.400 tỷ đồng của năm 2016 và đã đạt kỷ lục trong nhiều năm trở lại đây.

Trong 5 tháng đầu năm 2018 đã ghi nhận 4.035 sự cố tấn công mạng vào Việt Nam, riêng tháng 2 và tháng 3 có tới hơn 1.500 vụ tấn công mạng; bên cạnh đó với khoảng 637.400 máy tính bị kiểm soát nằm trong mạng máy tính bị nhiễm mã độc (mạng máy tính ma - botnet), Việt Nam xếp ở vị trí thứ 4 trong Top 10 quốc gia bị kiểm soát bởi mạng máy tính ma.

Lỗ hổng mất an toàn ngày càng gia tăng, khoảng hơn 300%/năm khiến nguy cơ an toàn thông tin mạng đang gia tăng nhanh chóng khi bước vào cách mạng công nghiệp 4.0.

Trước các cuộc tấn công mạng như vậy đối với Việt Nam, lực lượng an ninh mạng chuyên trách của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và của các cơ quan chức năng khác của Việt Nam đã tập trung mọi giải pháp về kỹ thuật cũng như con người để phòng, chống tấn công mạng, nhưng khó đạt hiệu quả cao nhất.

Theo các chuyên gia an ninh mạng, sự bảo vệ hiện nay không đủ để đối phó với tấn công mạng hiện đại vì các biện pháp triển khai khác nhau thường độc lập với nhau; thiếu hành lang pháp lý rõ ràng tạo trách nhiệm liên kết các biệp pháp triển khai của các cơ quan chức năng Việt Nam với nhau, đặc biệt là với các nước. Hầu hết các nước có hệ thống phòng chống tấn công mạng hiệu quả ngoài giải pháp kỹ thuật, con người còn có hành lang pháp lý cụ thể.

Điều đó nói lên rằng, chỉ có thể phòng chống tấn công mạng hiệu quả, ngoài biện pháp kỹ thuật, con người thì phải có hệ thống pháp luật cụ thể, rõ ràng đủ điều kiện triển khai các biện pháp pháp lý và hợp tác quốc tế”.

(Theo TTXVN)

(Theo TTXVN)

 

Chia sẻ bài viết

LƯU Ý: BDO sẽ biên tập ý kiến của bạn đọc trước khi xuất bản. BDO hoan nghênh những ý kiến khách quan, có tính xây dựng và có quyền không sử dụng những ý kiến cực đoan không phù hợp. Vui lòng gõ tiếng việt có dấu, cám ơn sự đóng góp của bạn đọc.

Gửi file đính kèm không quá 10MB Đính kèm File
Quay lên trên